Lời Chứng

Trên đường đi Mễdu, chúng tôi đổi máy bay ở phi trường Amsterdam.  Trong lúc xếp hàng để lên máy bay đi Split, tôi thấy một linh mục rất to lớn như chưa bao giờ thấy.  Tôi nghiêng qua chồng tôi, Mike, và nói:  “Anh nhìn xem vị linh mục ở đàng kia.  Ngài giống như một cầu thủ đá banh vậy.”

Sau đó, tôi được biết quả thật ngài là một cầu thủ đá banh, nhưng bây giờ ngài đang giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của ngài: là một tay chủ chốt trong đội banh của Thiên Chúa: một linh mục.

Cha Michael Lightner thuộc giáo phận Milwaukee, Wiscousin.  Tôi đã gặp thân mẫu của ngài, Joyce, mấy năm trước vì bà là người đem người hành hương tới Mễdu nhiều năm.

Trong chuyến bay cũng như những ngày ở Mễdu, Mike và tôi có dịp quen biết ngài và được biết câu chuyện thật lạ lùng của ngài.  Lúc đó Mary Sue và Larry Eck không có mặt ở Mễdu nên tôi xin được làm một cuộc phỏng vấn với ngài như một ân huệ.

Sandy:  “Thưa cha, cha có thể nói cho chúng con biết về câu chuyện trở về, và ơn gọi của cha được không?”

Cha Micheal Lightner:  “Tôi là một đứa con út trong mười một người con, nhưng chỉ sáu người chúng tôi sống sót.  Mẹ tôi bị hư thai bốn lần, và một đứa bé qua đời ngay khi mới sanh.  Tôi nhắc lên điều này vì về mặt tâm linh tôi được đám anh em đã về chầu Chúa bầu cử cho tôi.”

“Tôi lớn lên trong một gia đình Công Giáo và được uốn nắn bằng đức tin Công Giáo.  Toàn bộ gia đình tôi hoàn toàn sống theo lề luật Công Giáo.  Trong gia đình tôi luôn luôn có các linh mục tới chơi hoặc thăm viếng.  Tôi được nhận chìm trong văn hóa Công Giáo, nhưng sở thích của tôi lại khác biệt, tôi nghiêng về thể thao nhiều hơn.  Sự hiểu biết về đức tin có đó nhưng đức tin của tôi không phải là của tôi.”

“Khi học cuối năm phổ thông trung học, tôi quyết định ghi tên đi học về nghệ thuật và chơi đá banh ở trường đại học Eastern Michigan.  Tôi nhớ rõ cái tư tưởng này “khi tới đại học, đức tin của tôi sẽ theo cách riêng của tôi.”  Và khi tới đó rồi tôi không đi lễ Chúa Nhật vì tôi đã không bị ai thúc bách làm chuyện ấy.  Đó là một kiểu nổi loạn vậy.”

“Trong ba năm đầu ở đại học, tôi bị nhận chìm trong hố sâu.  Tôi dính với rượu chè, chơi ma túy, quan hệ tình dục lung tung.  Tôi bị tổn thương bởi một thiếu phụ trẻ mà tôi yêu tha thiết.  Nàng đã xé nát trái tim tôi và tôi thề rằng sẽ không bao giờ để bị đau khổ vì bất cứ người đàn bà nào nữa.  Chất ma túy cộng với thuốc phiện làm cho tôi thật tệ hại.”

“Thời gian cuối của đại học, vào dịp ‘Lễ Tạ Ơn’, tôi được về nhà nghỉ, tôi đem theo một số thuốc phiện để tiệc tùng với bạn bè.  Một hôm trong lúc đang ngủ thì đứa cháu ba tuổi đi kiếm cây viết chì, vô tình nhìn vô bịch thuốc phiện, nó lôi gói thuốc ra khỏi bịch, nhìn mẹ tôi hỏi:  “Bà ngoại ơi, cái gì vậy nè?”

“Thình lình, mẹ tôi chợt hiểu cái thói quen mà tôi muốn giữ bí mật  lâu nay.  Bà cùng cô em gái tôi liền xen vô chuyện.  Cô em gái tôi là người mới được nhận vô làm cố vấn ở nhà thương VA  Chicago.  Tôi thức giấc thấy họ ngồi ở mép giường.  Mẹ tôi đang ngồi khóc và tay thì cầm bịch thuốc phiện hỏi:  “Cái gì đây?”

“Ở thời điểm đó, chị tôi cũng chẳng có đức tin gì mấy, chị bắt đầu chọc tôi:  “Chúng ta cứ nghĩ mẹ chúng ta điên rồ khi bà làm những chuyến đi Mễdu để thấy Đức Maria.”  Chị tôi nói chơi với mẹ tôi rằng:  “Mẹ biết không, mẹ cần đem Micheal đi Mễdu rồi đó.”  Để làm dịu cơn đau, mẹ tôi đã bằng lòng đi.”

“Quả thật, mẹ tôi đã không phí thời gian.  Một tháng sau, tôi đã có mặt ở Mễdu.  Tôi đi với nhóm 30 người vào mùa Noel.  Mẹ tôi bảo tôi đi xưng tội.  Bà nói nếu tôi không đi cho tôi thì đi vì mẹ tôi.  Bất đắc dĩ, tôi phải đi.”

“Một ngày, bước qua những cánh đồng, tôi nhớ những lời cầu nguyện đầu tiên tôi nói từ trong trái tim:  “Chúa ơi, con không biết Chúa, và trong tri giác, con thật sự không cần thiết tin ở Ngài.  Con chưa bao giờ cảm được Chúa, nghe tiếng Chúa hay thấy Chúa.  Chúa có thể là Đấng cao cả mà 12 người đàn ông đã dựng chuyện lên.”

“Và tôi nói:  “Chúa chỉ có thời hạn bẩy ngày thôi; sau đó là con chấm dứt với đạo giáo của con, và con sẽ sống cuộc đời như con muốn sống..”

“Tôi bước vô nhà thờ thấy một linh mục người Mỹ đang ở trong tòa giải tội phía cuối nhà thờ Thánh Giacôbê.  Tòa giải tội đó làm theo kiểu xưa, bàn quì bằng gỗ, linh mục thì ngồi phía sau tấm màn nơi mà tôi không thể nhìn thấy được.  Quỳ xuống, tôi bắt đầu xưng tất cả các tội lỗi mình.  Khoảng 30 phút sau vị linh mục cho tôi việc đền tội là năm Kinh Lạy Cha và bảo tôi suy niệm năm dấu đinh của Chúa Giêsu Kitô trong lúc đọc kinh đền tội.”

“Tôi thấy bực mình:  “Năm Kinh Lạy Cha?  Vậy thôi sao?”  Tôi cứ tưởng tôi phải leo lên núi Thánh Giá bằng chân đất.  Tôi nghĩ tai vị linh mục phải chảy máu khi tôi xưng thú tất cả tội lỗi đã phạm.”

“Khi ngài bắt đầu bằng lời xá tội, thình lình hai vai của tôi bị ghim vô đằng sau bức tường của tòa cáo giải.  Chân tôi thì bị ghim phía dưới.  Tôi là người cao 6 feet 5, nặng 315 lbs, khoảng 15 % là mỡ, vậy mà tôi không thể nào nhúc nhích nổi.  Tôi cố gắng ngồi lên để nhấc người về phía trước nhưng có một cái gì đó ép tôi lại đằng sau, giống như là có một người nào đó đạp lên ngực tôi vậy.” 

“Khi nói xong lời xá tội, ngài tiếp:  “Cha tha tội cho con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”  Tôi cảm thấy như có một vật bén nhọn đâm vô ngay giữa ngực, theo sau là tiếng sôi sục giống như có một bàn tay đang xua đuổi những gì trong ngực tôi, đang cố gắng bắt lấy những gì trong đó.  Rồi có một cái gì đó như xé rách tôi ra, và tôi để cho tiếng thét vang lên từ tận cùng trong tôi.  Bây giờ thì tôi biết tại sao xảy ra như vậy, bởi vì lời cầu nguyện của tôi gay gắt với Ngài.  Và Thiên Chúa cũng chút ít gay gắt với tôi.”

“Ý tưởng đầu tiên của tôi là:  “Ồ Chúa ơi!  Chúa có thật!”  Tôi bắt đầu khóc sướt mướt khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ.  Tôi đã mất khoảng 45 phút để đọc xong năm Kinh Lạy Cha.  Và trong 45 phút đó, mỗi tội tôi xưng thú, ngay cả tội khi tôi còn thơ ấu đều đi qua trong trí nhớ tôi.  Giống như một thứ ánh sáng trong hồn nó soi rõ tất cả mọi tội lỗi và những gì tôi đã làm trong quá khứ.  Nhưng không phải chỉ thấy những tội lỗi của tôi mà thôi, mà tôi thấy tội lỗi tôi đã ảnh hưởng đến kẻ khác nữa.”

“Sau đó tôi tới dự Thánh Lễ 10 giờ sáng.  Đi kiếm một chỗ để ngồi, tôi thấy mình ngồi ngay phía sau chỗ ban nhạc.  Những gì xảy ra sau đó làm tôi nhớ lại một tai nạn đụng xe.  Khi những sự việc xảy ra như vậy, nó sẽ diễn lại mãi, và không bao giờ ra khỏi đầu óc được.”

“Chuyện xảy ra với cảm nghiệm của buổi xưng tội bữa đó cũng giống vậy.  Tôi cứ tự hỏi mình:  “Chuyện đó có thật không?  Mình có sao không?”

“Và rồi, bất thình lình, tôi tự ra khỏi ký ức của buổi hòa giải đó và tôi nhận thức được sự thật.  Vị chủ tế giảng bài giảng, tôi đã nói lời cầu nguyện thật lòng thứ hai:  “Chúa ơi! Hãy giúp con mở tâm hồn ra để con biết cha chủ tế đang nói gì.” 

“Trong lúc đó, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng làm như tôi bị mất ý thức và tri giác.  Mắt tôi nhắm lại nhưng tôi không nghe gì cả.  Sự tác động của Chúa áp chế trên tôi ở một điểm mà tôi sợ không dám mở mắt bởi vì tôi nghĩ tôi có thể bay bổng lên không.  Cảm giác đó ngây ngất và sung sướng hơn là bất cứ thứ thuốc phiện nào;  nó cũng còn hay hơn cả thắng một trận đấu lớn.”

“Bây giờ thì tôi biết cảm giác đó giống như một ngày Lễ Hiện Xuống.  Chúa Thánh Thần ngự xuống trên tôi với quyền năng của Ngài.  Sau khi xảy ra như vậy, nhiều người nhận ra điều đó nơi tôi cho dù tôi vẫn chưa biết đó là điều gì.  Họ nhờ tôi cầu nguyện cho họ.  Tôi cầu nguyện cho họ bằng kinh Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, bởi vì lúc đó tôi chỉ biết thế thôi, và rồi họ được nghỉ ngơi trong Chúa Thánh Thần.  Thấy vậy tôi thật sợ hãi không hiểu gì, vì lúc đó tôi mới 21 tuổi, một thanh niên thiếu tư cách, một cầu thủ chơi banh không biết mình đang có những gì.”

Đó là chuyến đi Mễdu đầu tiên của tôi.

“Chuyến đi thứ hai đầy ơn sủng và kinh nghiệm với cha Jozo.  Đó là sự đặt tay cầu nguyện của ngài cho tín hữu trong tác vụ chữa lành.   Tôi đã đi theo ngài trong buổi chữa lành ấy.  Ngài đặt tay cầu nguyện hết bên phải qua bên trái và tôi là người đứng đỡ họ phía sau lưng vì sợ họ té.  Khi đỡ những người đó tôi cảm nhận được Chúa Thánh Thần hiện diện nên thật sự là niềm vui, và đỡ như vậy tôi cũng được tập thể dục rất tốt nữa.”

“Sau hết, ngài tới với một người đàn bà ngồi trên xe lăn.  Vì tôi đi chung với ngài nên họ chia sẻ câu chuyện với tôi, cho tôi cái cảm giác được ưu đãi.  Trong trường hợp này, ông chồng của người đàn bà nói với tôi rằng:  “Vợ tôi bị tai nạn xe hơi bẩy năm về trước và xương sống của bà ấy hoàn toàn bị hư hại, sau qua một sự nhiễm trùng, sống lưng bị viêm, từ đó nó hủy diệt đi cái phần dưới của sống lưng.  Bắp đùi của bà ấy chỉ bằng cái cổ tay của anh.  Bà ta bị hao mòn quá nên chân của bà không có một tý thịt nào cả.”

“Khi cha Jozo đặt tay cầu nguyện trên đầu gối, mắt cá chân, hai chân bà  ấy, ngài cố gắng làm cho bà ta bước đi.  Lúc đó, tôi nghĩ rằng ông cha này chỉ phí thời giờ bởi vì không cách nào bà ấy có thể đi được.”

“Khoảng chừng 40 phút, tôi bắt đầu thấy chán nản và tôi bắt đầu cầu nguyện cho bà ta, tôi nói với thái độ khiếm nhã :  “Được rồi, Chúa ơi, nhấc bà ta dậy và dìu bà ấy bước đi xung quanh đây để chúng con được thấy quyền năng cao cả của Ngài.”  Đó là một lời cầu nguyện đầy ngạo mạn.

“Nhưng rồi, lần đầu tiên tôi nghe tiếng Chúa nói, tôi biết đó là tiếng Ngài:  “Nếu Ta làm cho bà ấy ra khỏi chiếc xe lăn này thì con có vô chủng viện không?”

 

“Tôi trả lời “không” liền tức khắc.  Sau 20 phút giống như Ngài cột sợi giây trong tim tôi, Ngài kéo sợi giây đó và làm cho tim tôi như dịu bớt đi.  Tôi cứ suy nghĩ hoài về lời nói của Ngài.  Sau cùng tôi bỏ cuộc và nói:  “Được rồi Chúa ơi, nếu Ngài làm cho bà ta ra khỏi chiếc xe lăn và bước đi xung quanh ngôi thánh đường này (Ngôi nhà thờ Siroki Brijeg khá lớn) thì con sẽ đi vào chủng viện.”  

“Bấy giờ thì tôi biết tôi đã hứa gì với Chúa nhưng không cần thiết là tôi phải làm linh mục.  Như vậy, tôi đã có lối thoát.”

“Trong vòng năm giây khi dứt lời cầu nguyện thì bà ta đứng dậy, bà nắm lấy chiếc xe lăn và đẩy đi xung quanh nhà thờ mà không cần sự giúp đỡ của một ai.  Tôi thất vọng nói với Chúa:  “Nếu bà ấy không bước lên cái hòn đá đó (nơi bà ta bắt đầu) thì con sẽ không đi.”  Và bà đã bước lên hòn đá đó và đứng lên thật.”

Đó là nguyên do về ơn gọi làm linh mục của tôi.

“Sau đó, tôi có ít nhất cũng 10 hoặc 15 bằng chứng xác nhận nữa vì tôi luôn thắc mắc tự hỏi mình:  “Chúa ơi, có chắc Chúa muốn con không?”  Có những xác nhận xảy ra khi tôi cầu nguyện chữa lành cho nhiều người.  Những lần khác là qua những trải nghiệm về Thánh Thể khác nhau, khiến tôi xác tín rằng Chúa Giêsu thật sự hiện hữu trong phép Thánh Thể.  Đây là một cuộc hành trình thật khó tin.” 

“Một xác nhận khác xảy ra ngay trên sân vận động.  Trong năm cuối  đại học, trận đấu banh lần thứ hai hoặc chót vào năm 1996, chúng tôi đấu cho tiểu bang.   Đang ở trong đám đông rất lộn xộn, tôi có một cảm nghiệm mà tôi có thể gọi được là thần bí nhiệm mầu.  Đó là một kinh nghiệm đã xảy ra và kéo dài cho 10 lần chơi trên thời hạn khoảng 20 phút.  Trong thời gian đó, tôi có thể nói chính xác trong 30 giây trước cái gì sẽ xảy ra, tôi biết trước những gì mà đội bên kia sẽ làm.  Mặc dù tôi chưa bao giờ đấu với đội banh này, tôi có cảm giác tôi đã biết những người này từ lâu lắm rồi.  Tôi biết những gì sẽ được gọi.  Tôi biết chúng tôi sẽ ghi điểm. Tôi biết chắc chắn chúng tôi sẽ thắng trận đấu.  Quả thật đó là điều không thể tưởng tượng nổi.”

“Sau trận thắng đó, tôi vô phòng cất đồ.  Tất cả mọi người khác đang ăn mừng, phần tôi ngồi trong góc của phòng cất đồ với chiếc khăn phủ trên đầu và khóc mùi vì những cảm nghiệm của mình.”

“Trong khu đại học ở Eastern Michigan, tôi sống với nhóm cầu thủ  và tối đó, chúng tôi đã mở tiệc ăn mừng tại nơi cư trú của chúng tôi.  Có khoảng 400 người tham dự.  Vào cỡ nửa đêm, tôi rất mệt mỏi vì đã uống rượu trong buổi tiệc đó.  Tôi lần hạt xong đi ngủ.  Khoảng 3:00 giờ sáng, tôi chợt thức giấc vì một giấc mơ.”

“Nếu bà hỏi, khi còn nhỏ, lớn lên tôi sẽ làm gì.  Tôi có thể nói cho bà biết là tôi sẽ chơi trong đội banh quốc tế (NFL).  Đêm đó, năm 1996, Thiên Chúa chỉ cho tôi thấy trong giấc mơ: khi còn là một đứa bé, tôi đã mơ thấy 10 lần chơi đó.   Ngài đã chỉ cho tôi thấy tương lai khi tôi chỉ mới 12 tuổi và kinh nghiệm của trận banh đó, bởi vì tôi đã thấy trận đấu đó trước trong giấc mơ của tôi – nghĩa là tôi đã thấy 10 lần chơi đó.  Và Chúa cho tôi thấy lại giấc mơ năm xưa sau khi tôi đã chơi 10 lần.  Và ngay lúc ấy, tôi  nhận thấy rằng nhóm liên minh quốc tế này đã không còn là ‘mơ ước’ của tôi nữa.  Sau đó, Chúa lại nói với tôi:  “Con đã hoàn thành giấc mơ của con, bây giờ thì phải hoàn thành giấc mơ của Ta: đó là đi tu làm linh mục.”

“Và rồi tôi để tâm làm theo Ý Chúa.  Tôi quyết định thay vì vô đại học để theo những đội banh đó, tôi sửa soạn cho mình để vô chủng viện.  Thật ra, sự chuẩn bị đó kéo dài hơn là tôi nghĩ.  Tôi dạy một năm và vô chủng viện năm sau.”

“Bà tin hay không tin, thì đó vẫn là lời tường thuật ngắn nhất về câu chuyện của tôi.” 

Sandy:  “Thưa cha, tiến trình hoán cải và ơn gọi của cha trên đường linh mục có vẻ như bắt đầu từ Mễdu, cha nói sao về chuyện này?”

Cha Micheal:  “Tôi luôn luôn có một sự sùng kính Đức Mẹ.  Khi 16 tuổi, tôi chơi một trò chơi, tôi nhớ tôi ném một cái đĩa chống lại với một cầu thủ nổi tiếng, Jim Flanagan.  Anh ta chơi ở trường đại học Notre Dame trong đội phòng vệ, chơi cho đội Bears ở Chicago nhiều năm, cho đội Packers ở Wisconsin, Raiders ở San Francisco một thời gian.”

“Tôi rất thán phục Jim vì anh ta là một tay thể thao lực sĩ.   Anh  luôn đeo một cái gì đó trên cổ.  Một lần kia, tôi hỏi anh, cái đó là cái gì.  Anh cho biết đó là cỗ Áo Đức Bà. Đó là chứng nhân âm thầm của anh.”

“Mẹ tôi cũng thường mang một cỗ như vậy, tôi xin mẹ cho tôi một cỗ và tôi bắt đầu đeo từ đó.  Ngay cả những ngày đen tối trong đại học, tôi thường đem phát cho bạn bè.  Tôi luôn luôn có khoảng 50 hoặc 75 cỗ trong phòng, mặc dù rất tội lỗi nhưng vì lý do nào đó tôi luôn cổ võ mặc Áo Đức Bà.  Cuộc đời đã không như một điệu nhạc vui nhưng Đức Mẹ luôn luôn ở với tôi.”

“Tôi tin rằng Đức Mẹ mang tôi tới Mễdu, ghi tên tôi vô làm công cụ cho Người, ghi tên tôi vô đội quân của Người.   Đây là lần thứ 12 tôi tới Mễdu, và mỗi lần mỗi khác.  Mấy lần hành hương đầu tiên đều là hướng về Mẹ, thật sự Mẹ đã mang tôi tới với Con của Mẹ trong các bí tích.  Đầu tiên là bí tích hòa giải, sau đó tôi có cảm nghiệm về Thánh Thể.  Kế đó, Chúa Giêsu đem tôi tới với Chúa Cha.  Sự liên hệ với Thiên Chúa Cha đã triển nở trong tôi qua những kinh nghiệm quyền năng của lời cầu nguyện trong đời sống tôi.  Thật sự không có gì hơn cuộc sống này, khó mà giải thích được.”

“Trong tiến trình này, Đức Mẹ bắt đầu bước đi với tôi.  Rồi Mẹ dừng lại và để tôi sống cái cảm nghiệm về Chúa Ba Ngôi. Nhưng Mẹ lại bước ra bước vô trong cái quan hệ của tôi với Thiên Chúa.  Chính Mẹ Maria, Người đã trở thành phương tiện chuyên chở khiêm tốn lèo lái tôi đi cho đúng đường và giúp tôi cầu nguyện.  Mẹ thật sự là người đồng hành với tôi trong cuộc sống của tôi.  Phải, với tư cách một linh mục, tôi được đồng hình đồng dạng với Trái Tim Chúa, để đem tôi vào trong thông hiệp với Ba Ngôi Chí Thánh.”

“Bởi vì Mẹ hiện diện nơi đây một cách độc nhất vô nhị như thế, thành thử không có gì ngạc nhiên khi chuyện hoán cải và ơn gọi của tôi được bắt đầu từ Mễ Du.”

Sandy:  Cha có thể nói tỉ mỉ cho con biết về quan hệ của cha với Thiên Chúa Cha được không?

Cha Micheal:  “Đây là một thí dụ:  Tôi có một kinh nghiệm với một người thiếu phụ trẻ ở đây.  Bà ta là bạn tôi khi còn học đại học, bà tới Mêdu như một khách hành hương với mẹ tôi.  Bà dính líu vô một vụ có liên quan tới thân phụ của bà và chuyện đó cần được chữa lành.  Khi cầu nguyện cho bà, tôi đã xin với Chúa Cha chia sẻ tình yêu của Người cho bà, ôm bà như một người Cha, và cho bà thấy tình yêu của Người.  Vấn đề này dĩ nhiên phải có sự tác động của Chúa Thánh Thần cũng như Chúa Giêsu, nhưng lời cầu nguyện của tôi nhắm vào Thiên Chúa Cha.”

“Những gì tôi có thể diễn tả là tôi cảm nghiệm được như cái gì đó giống như ánh sáng của chất thủy ngân đổ xuống, một chất hóa lỏng chạy ngang những tĩnh mạch của tôi và của bà ta.  Bấy giờ tôi thấy như một thứ đèn trắng, rất đẹp.”

“Sau đó, tôi đi ra ngoài, và những gì đó được gọi là trải nghiệm của Thánh Phanxicô.  Tôi không thể nghe được.  Nhưng những gì tôi nghe được chỉ là thiên nhiên như chim, chó, gà, mọi thứ trong thiên nhiên, ngay cả gió, tất cả đều ca ngợi Thiên Chúa Cha về sự tạo dựng của Ngài.  Sự kiện đó kéo dài khoảng 15 phút.”

“Khi tôi nói chuyện với bạn tôi, người mà tôi cầu nguyện cho thì bà ta thấy một cái gì đó xảy ra cho tôi.  Bà không hiểu được điều ấy, nhưng bà ấy biết đó không phải là tôi.  Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời trong các kinh nghiệm mà tôi chưa bao giờ có.  Tôi hiểu rằng Thánh Phanxicô thuyết giảng cho loài chim và thiên nhiên.  Và rồi tất cả đều rõ ràng đối với tôi.”

Sandy:  “Cha có thể nói gì với một thanh niên trẻ muốn theo con đường tận hiến?”

Cha Micheal:  “Thật không thể nhận thức rõ được con đường tận hiến khi sống ngoài đời, vì thế giới ngoài đời ảnh hưởng quá nhiều trên sự quyết định.  Ơn gọi của tôi như màn kịch, giống như loại người trái ngược của những ơn gọi trong thời đại này.  Tôi có kinh nghiệm của Thánh Phaolồ.  Chủng viện đối với tôi chỉ là sự giải thích những gì đã xảy ra cho tôi và kiện toàn tiếng Chúa gọi thế thôi.”

“Đa số những chủng sinh khi vô chủng viện thường được gọi một cách thầm lặng và họ nhận thức rằng họ có thể đi theo tiếng gọi đó,  và có thể sống đời sống đó.  Điều tôi muốn nói là thế này: “Cầu nguyện cho nên. Nếu bà cầu nguyện cho nên, và lướt thắng được những cái lỉnh kỉnh trong sự cầu nguyện, những chia trí lo ra, và  bước vô lãnh vực huyền nhiệm của Thánh Thể thì bà có thể nghe tiếng Chúa một cách rõ ràng.”

“Chúng ta đều nghe được tiếng Chúa nói trong tim; nhưng phài nhận định đó là tiếng nói của ai.  Phải biết phân biệt đó là tiếng Chúa hay Satan, hoặc tiếng chính mình thì thầm trong trí?  Một khi chúng ta nhận định được tiếng nói của ai thì chúng ta có thể đi theo tiếng nói tốt lành, còn của ma quỉ thì phải tránh đi.  Tôi nghĩ đây là một cái sứ điệp cho toàn thế giới, không riêng chỉ cho những ai chọn lựa con đường tận hiến.”

“Để tóm tắt, lời khuyên của tôi là ‘cứ làm đi!’. Cứ dùng một năm để thử đời sống chủng viện, dù đó chỉ là một năm trong đời sống.   Hãy để cho Chúa một năm để coi Chúa  muốn cho mình sống ở đâu.”

Sandy:  “Mới đây, chúng con cũng được giới thiệu tới những linh mục khác cũng có trải nghiệm giống như cha.  Chúng con đã gặp cha Donald Calloway và một số khác, trước khi các ngài được ơn hoán cải, cũng đã có một đời sống chẳng mấy thích hợp với “kiểu linh mục rập khuôn tương lai ” ?  Phải chăng đây là một sứ điệp ?”

Cha Micheal:  “Tôi có thể trở lại những gì mà cha linh hướng đầu tiên của tôi đã nói.  Ngài cũng là một khách hành hương Mêdu:  cha Luke Zimmer. Ngài có viết một cuốn sách nhan đề “Được chọn” .  Tôi tin rằng có nhiều kiểu ‘ơn gọi’.  Tôi nghĩ có những người được Chúa gọi để làm linh mục, có những người nam hay nữ được chọn sống đời tu trì.  Tôi cũng tin có những người được chọn chẳng hạn như 12 tông đồ.  Thánh Phaolồ cũng được chọn.  Mười hai tông đồ có tự do chọn lựa theo Chúa hay không theo Chúa.  Thánh Phaolồ cũng thế, nhưng Chúa Giêsu đã cho ngài thấy rõ ràng Chúa muốn ngài phải theo Chúa và ngài đã nhắm mắt theo Chúa.”

“Có  kinh nghiệm này mà ngay cả trong Thánh Kinh cũng nhắc tới, đó là người ta có thể lựa chọn và lại cũng có những người đã được chọn.  Tôi tin rằng tôi đã có sự chọn lựa, nhưng Chúa cũng đã cho thấy rõ điều thánh ý Người muốn làm cho tôi.”

“Tôi không biết tại sao.  Tất cả những ai biết tôi họ đều thấy tôi là một người bình thường.  Thỉnh thoảng, tôi cảm thấy làm linh mục là một sự kỳ diệu.  Và thỉnh thoảng tôi vẫn không tin được rằng Thiên Chúa có thể  đặt tôi ở cái vị trí phục vụ tha nhân trong tư cách này.  Tôi rất thích cái chức vị của tôi và thích làm việc như vậy.  Nhưng tôi cũng bình thường như người khác thôi.  Tôi thích đi săn, tôi thích câu cá.  Tôi thích thú vật, thích thể thao – tôi rất bình thường – Tôi không ngồi trong nhà nguyện cả ngày đâu.  Tôi sống và cuộc sống cũng vấy bẩn, bởi vậy chúng ta có Thiên Chúa và có các bí tích là vậy.”

Sandy:  “Cha có cảm nghĩ gì về sự khủng hoảng trong giới linh mục?”

Cha Micheal:  “Tôi tin rằng sự khủng hoảng trong hàng linh mục là vấn đề căn tính của giới linh mục.   Nếu bà nhìn vào nước Mỹ, từ bao năm qua các linh mục chỉ muốn được coi như những người bình thường.  Các sơ cởi áo dòng, và các linh mục đã rời bỏ hàng giáo sĩ.”

“Tôi từng làm việc với những người bảo trợ ơn kêu gọi.  Người quảng cáo ơn kêu gọi muốn trình bày cho thấy các linh mục cũng như những người thường.  Tôi nghĩ đó là việc sai lầm.  Hãy nhìn  những người trong quân đội làm quảng cáo và thương mại.  Bà biết rằng phải can đảm nếu muốn trở thành người hải quân.  Họ phải có lối chiêu mộ đề cao việc anh hùng như vậy để lôi cuốn người ta vô. Họ nói: “Đó mới là đời sống mà tôi muốn.”

“Tôi nghĩ linh mục cũng phải giống vậy.  Chúng ta đang trong trận chiến, theo một nghĩa nào đó, ta ở trong quân đội: quân đội của Chúa.  Nhưng không phải là trận chiến để giết người; song trong trận chiến thiêng liêng.  Tôi nghĩ rằng linh mục cần được trình bày theo lối đó.  Tôi tin rằng làm như vậy sẽ được nhiều người nghe theo, bởi vì việc trình bày ấy sẽ cho thấy giới giáo sĩ có một căn tính đáng nể và cũng giải thích cho thấy chúng tôi đang làm gì.”

“Nhìn vô phép Thánh Thể, thiên hạ nói đó chỉ là bánh và rượu thôi.   Không phải, đó là Máu và Thịt của Chúa Giêsu Kitô.  Khi nhìn vô những hiện tượng ở Lanciano, Orvieto, những phép lạ Thánh Thể trên thế giới, và tôi nói với người ta:  “Nếu Thánh Thể trở thành Máu và Thịt tươi, các người có dám tới ăn và uống không?”  Và có nhiều người đã nói “không”.  Trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa tại sao Người phải ẩn mình dưới hình bánh và rượu?  Bởi vì Người muốn tiếp tục nuôi sống đám dân của Người.”

“Căn tính là một điều cực kỳ hệ trọng của hàng linh mục và tu sĩ.  Bởi vậy tôi thấy các linh mục cần phải mặc lại chiếc áo tu phục của mình, trở lại với nếp sống phục vụ, nhưng phục vụ cho Chúa.  Chúng ta cần những con người mạnh mẽ trong giới linh mục, với não trạng của chiến sĩ, đang lao vào trận chiến thiêng liêng cho dân Chúa.”

Sandy:  “Thưa cha, mỗi khi con nghe một linh mục chống đối về Mễdu, câu hỏi trước tiên của con luôn luôn là:  “Cha đã tới đó chưa?”  Và câu trả lời luôn là:  “Không.”  Cha sẽ nói gì với những linh mục chống đối Mễdu?”

Cha Michael:  “Tôi sẽ gạt bỏ.  Đơn giản chỉ vì chúng ta không có quyền chống đối điều gì chúng ta không am tường.”

“Một ngày nọ, tôi đã đi coi cuốn phim The DaVinci Code.  Thật sự tôi không muốn đi.  Theo tôi đó là một cuốn phim thật rẻ tiền, vô giá trị cho dù họ cố gắng làm cho trình độ cuốn phim được đề cao lên, để bôi nhọ Giáo Hội và những gì Giáo Hội dạy.  Tác giả cuốn phim giả mạo vụng về đó không có đủ dữ kiện cơ bản để bôi bác. Ông ta không phải là một sử gia, và tôi không hiểu ông ta có phải là một Kitô hữu không.  Nhưng tôi muốn làm một người phê bình đã am tường hẳn hoi.”

“Làm một người phê bình chưa am tường hẳn hoi, nói ra những điều khi không có sự hiểu biết, thì chẳng khác gì đưa ra những ý kiến vô căn cứ vậy.  Tôi không thể nói về Thánh Kinh khi tôi không bao giờ đọc Kinh Thánh.  Tôi không thể nói về nội dung đức tin hay  Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo khi tôi chưa bao giờ học tới nó.  Chống đối Mễdu bằng cách nói thí dụ như:  “Chưa được Giáo Hội công nhận..” tuyệt đối không có nghĩa gì cả.  Vẫn biết Mễ Du chưa được Giáo Hội phê chuẩn ! Nhưng là vì các cuộc hiện ra chưa chấm dứt.”

“Hãy nhìn hoa trái của nó.  Chúa Giêsu đã chẳng nói trong Thánh Kinh là chúng ta có thể nhận định qua hoa trái của nó đó sao?”

Sandy:  “Ngoài những kinh nghiệm riêng cha đã biết, cha có chứng kiến những hoán cải nào khác ở Mễ Du không?”

Cha Micheal:  “Cả ngàn chuyện!  Đó thật là niềm vui.  Trong chuyện của tôi ở Mêdu đây, và ngay cả ở nhà, tôi đã từng thấy tất cả những phép lạ nói trong Thánh Kinh chỉ trừ trường hợp phép lạ bước đi trên sóng nước.  (Chúa ơi, nếu Chúa đang nghe con nói, con rất thích thấy được người nào đó bước đi trên nước!)

“Một người bạn thân nhất của tôi vừa mới được thụ phong linh mục đã chết đi đã hai tiếng rưỡi đồng hồ.  Qua sự cầu nguyện tuyệt vọng của người mẹ,Thiên Chúa đã làm cho ngài sống lại.”

“Tôi đã chứng kiến người mù được thấy, người điếc được nghe, người què được đi ra khỏi xe lăn, vịêc trừ quỉ, vịêc giải thoát, các phép lạ nho nhỏ, các phép lạ lớn, ung thư được chữa lành, nhiều nữa..v..v.  Mễdu là vùng đất ơn sủng.  Nhưng Thiên Chúa cũng làm phép lạ ở bất cứ nơi nào người ta cầu xin.  Chúng ta chỉ cần có can đảm cầu xin mà thôi.”

“Thiên hạ hành trình cả ngàn dặm để tới đây nhưng họ hành trình với đức tin, và Đức Mẹ luôn luôn hiện diện để giúp đỡ họ.”

“Tất cả mọi chuyện đều có thể xảy ra khi có Chúa nhúng tay vào.  Chúng ta cần đem sứ điệp đó tới đất Mỹ.  Tất cả đều là vấn đề đức tin.  Nếu chúng ta tin rằng Chúa yêu thương chúng ta đủ, để làm những chuyện đó cho chúng ta, thì Người sẽ làm.  Chúng ta là con cái của Người.  Chúng ta là những thụ tạo do Người dựng nên.  Người biết tất cả những sợi tóc trên đầu chúng ta và Người yêu thương chúng ta.  Người hứa:  “Nếu anh em nhân ta Thầy mà xin bất sự gì cùng cha Thầy thì anh em sẽ được.”

“Những chuyện hoán cải xảy ra là vì những người đó có đức tin.  Có thể đó là đức tin của người mẹ, như trường hợp của tôi, bà cầu nguyện cho con của bà, hoặc đức tin của ông bà nội ngoại họ bầu cử cho con cháu, tất cả đều là do đức tin.  Là quốc gia hay thế giới, chúng ta đều cần bắt đầu tin tưởng lại vào Thiên Chúa.  Chúng ta cần hy vọng vào Người.”

Đức cố Giáo Hoàng Gioan Đệ Nhị là một vĩ nhân của nhân loại, là một trong năm vĩ nhân trong lịch sử của thế giới.  Thế mà toàn cả chủ thuyết của ngài là:  “Đừng sợ !”  Chúng ta thường sợ đi với Chúa bởi vì chúng ta sợ phải thay đổi.  Đó là điều rất khó khăn đối với chúng ta. Cuộc sống đã được thoải mái cho nên chúng ta không muốn thay đổi gì nữa.  Thay vì sợ hãi hãy diệt đi nỗi sợ hãi, và như vậy sự sợ thay đổi sẽ cho chúng ta hy vọng được phục sinh, hy vọng được sự sống của Chúa Kitô.  Chúng ta phải là những người phục sinh, những người được thay đổi.

Chúa Kitô cũng đã có thể nói tiếng “không”, “Ta sợ và không muốn đi tới thập giá.  Ta sợ sự thay đổi mà thân Ta sắp sửa phải nhận lấy;  đinh sẽ đâm thủng chân tay Ta; lưỡi giáo sẽ đâm cạnh sườn Ta.  Ta không biết sự phục sinh sẽ như thế nào, thành thử Ta sợ ...”  Nhưng Chúa đã không để sợ hãi làm tê liệt, và nó cũng không thể làm tê liệt chúng ta được.”

Sandy:  “Trong nhóm của chúng con, chúng con luôn luôn hỏi những người hành hương xem họ có những ý nguyện gì muốn đem chia sẻ để chúng con có thể nâng đỡ nhau trong lời cầu nguyện.  Nếu con phải chọn lựa một ý nguyện mà con thường đã được nghe nhiều nhất trong 108 lần hành hương của con thì nó đều như thế này:  “ Xin vui lòng cầu nguyện cho con của tôi, nó đã bỏ nhà thờ.”  Cha đã có một thời gian quyết định bỏ không đi lễ Chúa Nhật nữa, vậy cha sẽ nói gì cho người đang đau khổ vì đứa con lớn của họ không còn sống đức tin Công giáo nữa?”

Cha Micheal:  “Đầu tiên chúng ta phải biết sự gì đã lôi kéo chúng lìa bỏ nhà thờ.  Rồi, cái gì ngăn cản chúng trở lại?”

“Văn hóa mà ngày nay chúng ta đang sống dạy một chủ nghĩa duy lý như sau:  “Tất cả mọi sự đều okay.  Nếu được với anh thì cũng được với tôi.”  Chúng ta cũng có những thành phần trong xã hội chúng ta nói rằng tự do quan hệ tình dục là okay, tôn giáo nào cũng giống nhau, thánh lễ quá buồn chán, v.vv.  Chúng ta có những người dạy dỗ trong Giáo Hội, nhưng không đủ tư cách để dạy dỗ, giáo hóa.  Họ dạy những ý của họ thay vì dạy giáo huấn của Giáo Hội.  Những người này sẽ phải trả lẽ trước mặt Chúa trong ngày phán xét.  Vậy hãy cẩn thận .”

“Tôi nghĩ đó cũng là một của việc tại sao hồi đó tôi đã bỏ nhà thờ.  Trong thời gian tôi  chơi vơi, trên bục giảng không một ai nói lên sự thật.  Tôi cần một người thật sự là một người mà tôi có thể trông nhờ, người đó hét lên sự thật trên toà giảng. Xui xẻo thay, chúng ta thường chỉ gặp một linh mục không mấy quan tâm tới. Ông ta chỉ muốn một thứ đạo nhạt nhẽo, dễ dãi, muốn một Đức Giêsu theo ý ông chứ không phải Chúa Giêsu là Thiên Chúa – Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa đáng chúc tụng.”

“Tôi nghĩ cái làm tôi ăn năn trở lại đó là tôi thấy Thiên Chúa hành động qua bàn tay của các linh mục ở Mễdu đây.  Đó là quyền năng Thiên Chúa và Người hoạt động như thế nào qua họ.  Sau đó thì bất kể linh mục đó là ai mà chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích và khả năng cảm nhận được Chúa Giêsu Kitô trong linh mục.”

“Trong nước Mỹ, chúng ta không mấy tôn trọng các linh mục. Thế là một đằng, chúng ta nói:  “Hãy cầu nguyện cho thêm nhiều ơn gọi làm linh mục, và đàng khác chúng ta chỉ trích các vị mục tử, thí dụ vì các ngài làm cái này, làm cái nọ trong Giáo Hội v.v..  Nhưng thử hỏi chúng ta có cầu nguyện cho các ngài không?”

“Hãy lấy chuỗi Mân Côi ra, quì gối xuống và cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta.  Đừng chỉ trích các ngài;  hãy để Chúa thay đổi các ngài.  Chúa Giêsu là Đấng gần gũi các ngài hơn cả, Ngài ở trong trái tim họ, nhưng khi các ngài bị chỉ trích hết lần này đến lần khác, thì các ngài cũng sẽ phải tự vệ bởi vì các ngài cũng chỉ là con người.  Giáo Hội vừa nhân loại vừa thần thiêng. Giáo Hội thần thiêng thì hoàn hảo nhưng chúng ta có khuynh hướng làm hư hại bởi vì chúng ta là con người.  Hãy cầu nguyện để được thánh thiện hơn.”

“Còn những đứa con lìa bỏ nhà thờ, hãy cầu nguyện nhưng đừng lên án, đó là câu trả lời.  Giáo Hội cần sự chữa lành, gia đình cần được chữa lành và thế giới cũng cần chữa lành.  Tất cả những vấn đề này đều có thể thực hiện nhờ cầu nguyện.”

Sandy:  “Con nghe nói rằng:  Xin thì sẽ được.”

Cha Michael:  “Tôi tin điều ấy đúng.”

Sandy:  “Còn điều gì nữa con chưa hỏi mà cha muốn cho lời giải thích không?”

Cha Michael:  “Thôi. Thế là quá đủ.”

Ghi chú:  Cha Michael Lightner đã tham dự kỷ niệm năm thứ 12 ngày hội nghị Đức Maria tổ chức tại Clearwater, Florida, vào ngày 11, 12, tháng 11, năm 2006.  Ngài đã chia sẻ câu chuyện hoán cải của ngài và cầu nguyện với số người.  Chúng tôi hy vọng ngài sẽ có mặt với chúng tôi lần nữa trong tương lai. 

Sandy Tobin

Thuận Hà -  Tập San Međujugorje  Winter 2006