Thánh nữ Rita De Cascia (1381-1457)
(Lễ ngày 22 tháng 5)
Thị trấn Cascia, nơi thánh nữ Rita sinh ra, thuôc tỉnh Ombria. Đó là một nơi đẹp như thiên thai, núi đồi trùng điệp với những cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Gần thị trấn có thành phố gọi là Assisi, nơi chôn nhau cắt rốn của thánh Phanxicô năm dấu.
Thời kỳ đó, sống đời Kitô hữu rất khó vì thói hư tật xấu tràn lan, người ta sống xung khắc và chia rẽ nhau. Đời sống khó khăn, bên trong nội chiến, bên ngoài ngoại xâm dày xéo. Quân Hồi từ Phi Châu và Trung Đông tràn lan khắp các nước Tây Âu để tàn phá và chiếm đóng. Dù hoàn cảnh nhiều nhưng vẫn có những Kitô hữu sống đời thánh đức để giảm bớt những tình cảnh vô đạo của cuộc sống. Dù gặp nhiều khó khăn, họ vẫn sống đẹp lòng Chúa và tận tình phục tha nhân. Nhiều cặp vợ chồng quyết tâm sống đời trai tịnh để phục vụ cho ích chung của Giáo Hội.
Giữa lúc ấy có bà Amata đến tuổi già mà không con. Dù chẳng còn hy vọng nào, bà vẫn mong Thiên Chúa sẽ cho bà một mụn con để nối dõi tông đường. Bà được thiên thần hiện ra cho biết sẽ mang thai và sinh con. Dù thất học, bà vẫn biết nhiều điều Chúa mặc khải trong Kinh Thánh. Bà tin rằng không có gì mà Thiên Chúa không làm được. Cặp vợ chồng già mừng biết bao khi thấy Chúa ghé mắt trông nhìn, cho mình có hy vọng sinh con... Giữa hồng ân cao cả ấy, họ gia tăng cầu nguyện và dân làng vẫn gọi đứa trẻ là "em bé của phép lạ". Ai ai cũng tới gia đình ông bà để chúc mừng. Họ nói với nhau: "Chúng ta chờ xem đứa bé này sẽ ra sao?"
Sau 9 tháng 10 ngày chờ đợi, đôi vợ chồng già sung sướng đón chào bé gái xinh đẹp tuyệt trần. Họ đặt tên cho bé là Rita, nghĩa là Cúc Trắng. Đây là hồng ân Chúa ban cho gia đình vào tháng hoa kính Đức Mẹ. Tình cảnh đã đổi thay. Qua bao năm tĩnh lặng, nay ông Antôn và bà Amata vui tươi, rộn ràng vì cả thị trấn đều đồn thổi về việc bé gái mới sinh. Đối với ông Antôn, bé Rita là niềm vui to lớn. Từ ruộng đồng về, dù có mệt mỏi tới đâu, khi bồng ẵm con là ông quên hết mệt nhọc vì niềm vui được làm cha. Ông mau chóng cho bé được rửa tội để trở nên con cái Chúa.
Vào những ngày mùa, vợ chồng cùng nhau làm việc ngoài đồng nên họ cho bé vào chiếc nôi bằng tre đan, đặt dưới bóng mát. Nghĩ rằng bé còn nhỏ, chẳng thể ra khỏi nôi được, họ an tâm làm việc trên mảnh ruộng gần đó. Ông bà vui tươi làm việc giữa những tiếng hát và lời kinh. Có ngờ đâu một đàn ong trắng đẹp bay tới lượn quanh. Bé Rita thấy đàn ong đậu trên tay chân mình thì vui vẻ chơi với chúng. Một nông phu gặt lúa bị đứt tay liền chạy đi tìm thuốc chữa. Ông ngang qua, thấy đàn ong bâu bám khắp thân mình bé: chui vào tai, mắt, mũi, miệng đứa bé mà bé vẫn tươi cười. Ông xua đuổi đàn ong vì sợ bé bị chích đau nhưng nó không hề hấn gì. Cha mẹ nghe tin hốt hoảng chạy tới và vui mừng ẵm bé lên tạ ơn Chúa vì bé vẫn an lành. Bác nông phu cũng ngỡ ngàng khi phát giác rằng vết thương nơi tay mình đã lành lặn. Đàn ong bay quanh bé Rita giống như bay quanh tổ vậy. Ông bà ngạc nhiên, tự hỏi tương lai bé là gì mà từ sơ sinh phép lạ đã xảy ra? Về sau, khi Rita trở thành nữ tu, đàn ong đến làm tổ tại tu viện và còn tồn tại cho tới nay.
Đôi vợ chồng cao niên cẩn thận chăm sóc ái nữ. Ông bà dạy cho bé đọc kinh rất sớm. Bé ngoan ngoãn, chuyên chăm học tập và trí hiểu của bé phát triển rất mau. Ông bà không có điều gì phật lòng về con mình. Thời ấy, mọi kiến thức đạo giáo được thực hiện trong phạm vi thánh đường. Kinh bổn, sách thiêng và Kinh Thánh đều được diễn giải qua những bài giảng của vị linh mục. Bà Amata nghe được điều gì thì kể cho con điều đó. Bà có lòng tôn sùng sự thương khó Chúa nên thường kể cho ái nữ nghe rằng Chúa Giêsu đã chịu khổ nạn vì tội lỗi loài người. Bé lớn lên đầy khôn ngoan và nhân đức, luôn gia tăng lòng mến đối với Chúa và muốn thuộc trọn về Ngài. Thấy cha mẹ trong cảnh già yếu, Rita làm việc giúp đỡ cha mẹ. Bé quét nhà, giặt giũ, làm bếp và sắp xếp ngăn nắp mọi đồ đạc trong nhà. Không bao lâu, bé trở nên một cô gái nội trợ rất giỏi, một thiếu nữ đảm đang mọi công việc. Rita thức khuya dậy sớm, làm việc trong nhà và đảm nhiệm việc đồng áng rất sành sỏi. Cô sẵn sàng dầm mưa dãi nắng để chăm sóc vụ mùa, mong nó mang lại thành qủa tốt đẹp. Trong gia đình chỉ có cha mẹ già, nên cô khôn ngoan quán xuyến mọi việc.
Mỗi chiều tối, song thân ngồi trò chuyện với nhau, kể hết truyện thánh này đến thánh khác. Cô gái nồng cháy tình yêu đối với Chúa nên muốn thoát ly gia đình. Tiếc là song thân quá già yếu, cần đến sự chăm sóc của cô. Thay vì tới những khu rừng vắng, Rita tìm vào góc nhà của mình làm nơi tĩnh tâm cầu nguyện. Cô treo mẫu ảnh về sự thương khó Chúa trên tường rồi ấn định giờ cầu nguyện và suy niệm về cuộc khổ nạn Chúa. Thỉnh thoảng cô ra khỏi nhà, tung tăng trên các triền đồi và đồng ruộng để suy niệm về những kỳ công Chúa đã làm. Ngước nhìn sự lạ lùng của trời đất để nhận biết Đấng dựng nên và an bài mọi sự. Có những lần, cô ngây ngất quỳ trên đồi cao, ngước nhìn trời, thờ lạy Đấng đã tạo thành vạn vật. Cô ao ước dâng mình cho Chúa trong dòng nhưng không dám ngỏ lời vì sợ cha mẹ buồn. Cô quyết định phục vụ cha mẹ cho đến hơi thở cuối cùng. Thói quen địa phương, cha mẹ nào cũng mong cho con mình đũa có đôi. Biết rõ ý định của cha mẹ là quyết gả chồng cho mình, Rita cảm thấy vô cùng chán nản và thất vọng. Cô không thể từ chối vì sợ làm cho hai người chết vì buồn tủi và đau khổ. Làm sao tìm được người xứng đôi vừa lứa?
Phaolô là gã thanh niên cục mịch và vô lễ, thế mà song thân lại nhận lời qua người mai mối. Anh ta là con người hợm hĩnh, thất học và biếng nhác, hơn nữa lại thuộc phe chống đối Đức Giáo Hoàng. Hắn là một gã đạo chích, vào tù ra khám, quậy phá nhất vùng. Rita biết rõ số phận mình nên quỳ cầu nguyện suốt đêm trước tượng chịu nạn. Xin Chúa cho người chồng tương lai được ăn năn hối cải. Vì lòng mến Chúa và vì hiếu nghĩa với cha mẹ, cô can đảm đón nhận số phận mới là làm vợ và làm mẹ. Sống với một người nổi tiếng là vũ phu, Rita suốt ngày nghe sấm sét bên tai những lời tục tằn, dơ bẩn, nhưng vẫn cắn răng chịu đựng. Dù người vợ luỵ phục hết sức mình, người chồng vẫn không bao giờ hài lòng. Ngày nào cũng chịu những trận đòn chí tử, có khi chịu hành hạ tới mức gãy cả răng. Dù sao, Rita vẫn âm thầm nín nhịn, không bao giờ phàn nàn kêu trách. Chấp nhận làm người vợ nhịn nhục trong đau khổ, Rita hết sức chiều chồng, tìm mọi cách làm thỏa lòng mà vẫn không xong.
Được 2 người con trai, Rita chăm chút, dạy dỗ chúng nên người, tránh cảnh phũ phàng của người bố bất nhân. Nhưng tránh sao được? Vì chịu đựng quá đáng làm cho sức khỏe ngày một suy giảm. Có lúc người chồng cảm thấy ân hận, khóc ròng suốt đêm về cách ăn nết ở của mình, rồi chứng nào tật ấy. Ngoài việc hứng chịu những khổ đau do bạn đời gây ra, Rita còn ép mình ép xác để ăn chay và cầu nguyện cho chồng hoán cải.
Dù bề ngoài tỏ vẻ hớn hở vui mừng, Rita không giấu được nỗi âu lo bên trong. Thấy thân hình của vợ ngày một tiều tuỵ Phaolô thương hại. Anh quỳ xuống, van nài: "Xin em tha thứ!" Giọng nói thiết tha và chân thành. Rita cảm động, nâng chồng dậy và nhẹ nhàng đáp: "Em chẳng những tha mà còn quên hết mọi chuyện". Kể từ đó, gia đình đầm ấm, vui tươi, sung sướng và hạnh phúc chan hoà. Con cái thấy bố mẹ hoà thuận cung trở nên hồn nhiên và khỏe mạnh thêm. Hàng xóm thấy cảnh đổi thay, nửa mừng nửa lo, họ khó tin đó là sự thật vì đã nhiều lần xảy ra. Đúng là như vậy. Dù sao, Phaolô vẫn còn tính ghen tương, dễ nổi nóng. Biết tính tình của mình chưa ổn định, anh tìm cách lánh đi nơi khác mỗi khi nổi nóng. Đẹp thay trong cảnh gia đình, vợ chồng con cái an bình sống vui. Gioan và Phaolô không còn phải run sợ trước cảnh uy hiếp của người bố nóng tính nữa. Mỗi lần bố đi làm về, cả hai có thể vui đùa với bố và quấn quýt bên mẹ.
Hạnh phúc gia đình đang cao dâng thì ông bà ngoại của các cháu lần lượt qua đời. Hai vợ chồng quỳ cạnh giường, hứa sẽ sống xứng đáng là Kitô hữu tốt lành để cho ông bà khỏi ân hận về mình. Sau khi ông bà ngoại khuất, Rita có chút thời gian rảnh rỗi để thăm những người ốm đau trong xóm. Từ nay, chị chăm sóc họ giống như chăm lo cho bố mẹ. Những người hàng xóm coi chị như người thân, chị rất chu đáo tận tình đối với những người già cả. Gia đình dẫu không giàu có, chị vẫn là người dành dụm chút tiền của, để nâng đỡ những kẻ thiếu thốn trong làng. Chị thường dẫn con đi để dạy chúng cách chăm sóc bệnh nhân và giữ thói quen làm việc từ thiện theo đường lối Kitô giáo. Thời kỳ ấy, thường xuyên xảy ra những vụ cướp bóc, giết người bừa bãi. Chị Rita giàu lòng nhân ái, sẵn sàng tới những nơi người ta kêu gọi để giúp đỡ, ủi an và cung cấp của ăn thức uống.
Tối hôm ấy, Phaolô đi làm về khuya. Nghe có tiếng kêu thất thanh bên ngoài! Có gì xảy ra vậy? Những người lạ mặt vào nhà báo tin động trời lở đất cho mẹ con chị Rita. Ai cũng hoảng sợ.
- Mau lên, chồng chị bị đánh đang nằm mé đường đầy thương tích!
Chị cùng mấy đứa con và hàng xóm láng giềng chạy theo con đường dọc bờ sông Carno. Ôi, chồng chị bị bọn vô lại đánh chết dập ở gốc cây. Không có dấu vết tự vệ nào vì từ khi ăn năn trở lại, anh không bao giờ mang theo vũ khí. Tụi bạn cũ đã hành hạ anh đến chết và những khách bộ hành ngang qua nhận diện đã mau chóng về báo tin. Đau khổ chồng chất, chị Rita cùng con khóc ròng. Không biết qua nỗi khổ đau này Chúa sẽ mang lại ơn ích gì? Mỗi đứa con nắm chặt đôi tay, căm phẫn đối với hung thủ. Máu hận thù sôi sục và quyết trả xong món nợ này. Hiểu nỗi lòng con, chị xin tha thứ.
Mấy hôm trước, tiếng cười rộn rã của gia đình, nay chỉ còn tiếng khóc nỉ non. Lúc này, linh cữu được chuyển tới nhà thờ để tham dự thánh lễ lần cuối cho người quá cố. Mẹ của hai đứa bé kiên gan đón nhận nỗi khổ đau của thập giá mới được gởi tới. Bình an trở lại trong đáy lòng vì Chúa soi sáng cho biết chồng chị đã được rỗi. Hai đứa con đồng cảm với mẹ, nâng lòng kiên trí lên cầu nguyện cho linh hồn người cha thân thương. Nghe lời mẹ khuyên, xóa bỏ hận thù, quảng đại chu toàn bổn phận mình cách vui vẻ. Tuy nhiên, chúng cảm thấy nỗi nhục khôn tả của người con không trả thù được cho cha. Người quả phụ trẻ có linh cảm rằng con mình sẽ rơi vào tình cảnh bi đát. Chúng bàn bạc với nhau cách trả thù. Bà cầu xin Chúa chớ để chúng sa trước cám dỗ mà phạm tội giết người. "Thà chết không phạm tội mất lòng Chúa!" Lời khuyên của hoàng hậu nước Pháp còn vẳng bên tai: "Con ơi, mẹ thà nhìn con chết trước mặt mẹ còn hơn thấy con phạm tội mất lòng Chúa!" Bà chỉ còn biết cầu nguyện cho các con thà chết đi còn hơn để chúng phạm một tội ác tày đình như thế.
Vài ngày sau, những người con lâm trọng bệnh, hết đứa nọ tới đứa kia. Bà ngày đêm ấp ủ nơi lòng hai đứa con thương mến. Tìm thầy, chạy thuốc mà chẳng được. Đứa lớn tắt thở xong thì đứa bé cũng qua đi. Thế là người mẹ mất một lúc hai đứa con thân yêu. Cõi lòng như tan vỡ nhưng tâm trí bà hướng về Đức Mẹ Sầu Bi. Thà rằng con mình chết non còn hơn muôn đời lầm than dưới hỏa ngục. Suy về ơn được cùng Đức Mẹ thông phần đau khổ với Chúa Giêsu, bà cảm thấy nhẹ nỗi lòng. Goá bụa, đơn côi, sầu khổ, bà quỳ gối dưới cây thập tự, tha thiết thân thưa cùng Chúa: "Chúa ơi, trên đời, con cô đơn quá đỗi. Chuá muốn con làm gì?"
Lòng hồi hộp, chị rung chuông. Mẹ bề trên dòng nữ thánh Augustinô mở cửa, thấy rõ thiện chí của người nữ đơn sơ và can đảm nhưng luật nhà tu không cho phép. Nghe lời từ khước, lòng Rita se lại. Nhưng chị nghĩ người ta có thể phụng sự Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trở về với đời thường, chị tiếp tục chăm sóc người nghèo, lo cho bệnh nhân, làm phúc bố thí... thế mà lòng trí vẫn ao ước vào dòng tu bất chấp những nỗ lực khác. Chị tới gõ cửa nhà dòng dăm lần bẩy lượt nhưng vẫn bị từ khước.
Vào một đêm khuya thanh vắng, chị không kìm hãm được lòng mình. Hai tiếng gọi làm chị phải chỗi dậy. Chị vào giường ngủ, lại nghe tiếng gọi "Rita, Rita!" Chị thức dậy và ra cổng. Chị thấy có 3 người: một người với vẻ mặt đáng kính. Hai người kia đi tháp tùng. Từ đáy lòng, chị hiểu ba người đó là thánh Gioan Baotixita, thánh Augustino và thánh Nicola. Các ngài đến để chứng tỏ Chúa nhận lời chị. Ba vị thánh mời chị đi theo. Chị bước đi mà cứ tưởng mình đang trong giấc mơ. Tới tu viện dòng thánh nữ Augustino, cổng bỗng mở ra. Khi chị Rita đã vào trong thì cỗng tu viện khoá chặt lại. Ba vị thánh biến mất, chị quỳ xuống dâng lời tạ ơn. Sớm mai, bề trên và chị em trong dòng ngạc nhiên, không hiểu người nữ đã bị khước từ ba lần làm thế nào vào được tu viện đang khi cổng vẫn khoá. Chị Rita thành khẩn kễ lại sự việc và toàn thể cộng đoàn vui mừng đón nhận chị vì coi đó là thánh ý Chúa tỏ tường. Kể từ đó chị Rita sung sướng chu toàn bổn phận của một nữ tu, thành thạo và hoàn hảo như đã được đào luyện từ lâu năm.
Việc Rita vào dòng là sự can thiệp lạ lùng của Chúa, không có nghĩa là mọi sự êm xuôi tốt đẹp. Có nhiều chị em xì xèo chê bai, tò mò, và náo động cả tập viện do bản chất thói hư tật xấu của con người tạo ra. Chính Rita đã có thói quen tập nhân đức nên lòng ghen tương của chị em không làm cô nao núng. Dẫu vậy, chị vẫn âm thầm chịu đựng, tìm mọi cơ hội to nhỏ để làm việc lành phục vụ cho chị em. Giống như các nữ tu khác, và còn hơn họ về mọi phương diện, chị phải từ bỏ nhiều chuyện: Dù nhiều người nghèo tới chị để xin giúp đỡ, nhưng lúc này, chị phải khước từ họ để tu viện đượm nét yên tĩnh giúp cho công việc học tập và cầu nguyện của cộng đoàn. Ngoài những việc hãm mình hy sinh đền tội chung như mọi chị em, chị còn xin được làm những việc đặc biệt hãm mình, với phép chuẩn của các bề trên: "Ngày ngày chị làm những việc nặng nhọc mà chị em trong dòng không thể cáng đáng."
Một hôm, bà bề trên nói với chị: "Rita ơi, ngày nào chị cũng phải tưới cho gốc cây khô kia để nó trổ mầm rồi nở hoa." Dù biết là việc không thể xảy ra, chị Rita vẫn khiêm tốn vui vẻ vâng lời làm việc. Thế là sớm chiều hai lần, Rita múc nước tưới đẫm gốc cây khô khẳng đó. Nhiều nữ tu chê cười vì hành vi ngây ngô ấy vì họ cho rằng gốc cây khô, không còn đâm chồi nẩy lộc được nữa. Nhiều nữ tu nghĩ bụng: "Công việc này có tới muôn đời cũng chẳng thành công". Các bề trên mỉm cười và âm thầm ca tụng lòng khiêm tốn và sự thánh đức của chị. Rồi ai cũng ngạc nhiên khi thấy gốc cây khô chồi ấy lại chớm nở những mầm lá xanh. Những mầm xanh tươi ấy là phần thưởng Chúa dành cho sự vâng lời và khiêm nhường của chị Rita. Thế là gốc nho khô cằn ấy dần dần trở thành một cây xum xê lá cành với những chùm nho chín mọng. Cho tới nay, sau 500 năm, cây nho này vẫn tốt tươi sai trái.
Chị Rita cũng không muốn làm một vị nữ tu nửa vời hoặc một vị thánh dở chừng. Satan thấy đời sống đức hạnh của chị ngày một cao dâng, nó bắt đấu tìm mọi phương pháp để phá huỷ công trình lập nhân đức của chị. Lòng trí của chị ngày một dấy lên những suy nghĩ kiêu căng, và chị đã tìm cách hãm dẹp chúng bằng lời cầu nguyện và hãm mình đền tội. Ma quỷ tạo mọi phương cách khác nhau để làm cho người tớ nữ của Chúa nản lòng bỏ cuộc, nhưng nó thất bại ê chề. Để lướt thắng những cơn cám dỗ, chị Rita gia tăng giờ suy niệm về cuộc khổ nạn Chúa. Mỗi lần ngắm nhìn tượng Chúa chịu nạn, suy về những vết thương Chúa chịu, chị tha thiết ước ao mình được giống thánh Phanxicô cũng mang thương tích của Ngài. (Kể từ thời thánh Phanxicô tới thế kỷ 21, có khoảng 263 người được ơn mang thương tích Chúa).
Noi gương Đức Mẹ Sầu Bi, chị Rita luôn đứng trước thập giá để suy niệm về cuộc thương khó của Ngài. Đột nhiên, chị cảm thấy đau nhói như ngàn vạn mũi gai thấu vào óc, vào tim, vào xương tuỷ. Sau một cơn đau vài giờ đồng hồ, chị Rita trở lại đời thường, mang trên đầu những dấu vết gai nhọn cào xước. Kể từ đó, hằng ngày chị phải chịu đau khổ từng cơn trong suốt 14 năm, tới ngày qua đời. Những đau khổ của chị không những thuộc phạm vi thể xác mà còn thuộc lãnh vực tinh thần nữa. Trước hết, ngày hoặc đêm, chị lên cơn đau vào bất cứ lúc nào về thể xác. Đặc biệt, những cơn đau đó gây ra mùi hôi thối cực kỳ khó chịu. Mùi hôi thối từ những vết thương của chị Rita là nỗi khổ chung cho cả cộng đoàn. Tới nỗi, cả cộng đoàn quyết định cách ly chị khiến chị phải chấp nhận nỗi khổ đau của người bị cô lập, vì không ai được tới gần. Dù khổ đau, chị Rita không bao giờ phàn nàn kêu trách. Chị luôn cảm tạ Chúa vì đã ban hồng ân mà chị nài xin. Ngày đêm, chị dâng những cơn đau cho Chúa Giêsu để hiệp nhất với Ngài trong ý hướng đền tội cho muôn người. Dù chị rất vui mừng được lãnh chịu nỗi khổ đau trong trầm lặng, dân chúng bên ngoài bắt đầu xì xèo với nhau về đặc ân cao cả này. Người ta phao tin khắp nơi, gợi ý cho kẻ này người kia tới thăm viếng, tới xin ơn...
Gần tới năm 1450, là năm thánh cứu độ cho toàn thế giới. Thời ấy, Đức Nicola V kêu mời mọi người cầu nguyện cho thế giới được bình an, cho các bè rối được ăn năn trở lại. Chị Rita hết lòng hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha và ao ước được cùng chị em tới Roma để hưởng nhờ ân xá cứu độ. Tuy nhiên, bề trên rất e ngại vì bệnh tình của chị là nỗi ghê tởm cho đoàn hành hương. Tuy nhiên, Thiên Chúa can thiệp để những vết thương và những mùi hôi thối từ chị không còn nữa. Cơ thể của chị lành lặn như thường nhờ đó, bề trên có thể tổ chức cho cả cộng đoàn hành hương thật tốt đẹp. Thế là chị dẫn đầu phái đoàn tới Roma. Thời ấy, luật hành hương quy định ai nấy phải đi bộ. Đang khi đi, họ phải ăn chay, hãm mình đền tội. Có khi phải nhịn đói nhiều ngày.
Vào dịp năm thánh 1450, Đức Thánh Cha giới thiệu cho thế giới hai vật dụng thánh thiện liên quan đến cuộc khổ nạn Chúa Giêsu: Vật dụng thứ nhất là lưỡi đòng mà người lính đã đâm vào cạnh sườn Chúa khiến nước và máu chảy ra. Vật dụng thứ hai là tấm khăn mà Truyền thống kể rằng trong cuộc khổ nạn có một phụ nữ tên là Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt thì hình ảnh dung nhan Ngài được in vào khăn của bà. Chị Rita được ơn đặc biệt là mang những vết thương của mão gai, không hiển hiện lúc này, nhưng cứ đến cơn bệnh là cảm thấy đau khổ vô cùng. Trước hình chiếc khăn bà Veronica, chị chiêm ngắm Chúa mà hồn ngất ngây tôn thờ dung nhan Chúa.
Sau những ngày hành hương, chị em trở về cộng đoàn, lòng chan chứa niềm vui. Chị Rita trở về tu viện có gì khác không? Bên ngoài không có gì khác lạ. Ngược lại, cơn đau của những vết gai trên đầu tăng thêm cường độ dữ dội. Chị phải giấu mình trong luỹ cấm để âm thầm thông phần đau khổ với Chúa. Nỗi khốn khó mà chị Rita phải chịu là sống lẻ loi trong một căn phòng cách biệt. Cơn đau cao dâng bao nhiêu thì tình yêu tăng mạnh bấy nhiêu.
"Vách có tai". Dù sống thầm lặng trong bốn bức tường, sự thánh thiện của chị cũng được đồn xa. Người ta loan truyền cho nhau, vào xin khấn rất nhiều. Có bệnh nhân được khỏi nhờ lời chị chuyển cầu cho. Một bà cụ già tới xin chị cầu nguyện cho đứa con đau nặng sắp chết. Chị đã cầu nguyện. Bà trở về tới nhà thì con bà đã khỏi. Không chỉ có những người làng Cascia tới khấn xin mà cả những dân cư thôn, xã, huyện, tỉnh xa xôi cũng kéo nhau đến để xin chị Rita cầu nguyện cho. Chị càng gia tăng lời cầu xin, hãm mình, hy sinh, và đền tội...
Sau 4 năm liệt giường, cơ thể chị như không còn chút khí lực nào. Chị nằm bất động. Con người của chị mỗi lúc một thánh thiện hơn và gần Chúa hơn. Chị không còn làm được hành vi nào ngoại trừ nghĩ đến Chúa. Thiên Chúa như chiều lòng chị cả trong những sở thích tự nhiên. Hôm ấy là mùa đông. Khắp trời rợp tuyết. Một chị bạn mù mắt tới thăm, nghe nói về Thiên Chúa. Mắt chị bạn đột nhiên bừng sáng. Chị Rita nói với chị bạn: "Em nhờ chị về vườn của nhà dòng ngắt cho em một đoá hoa hồng?" Vào mùa đông, không có loại hoa nào nở. Nghe lời này, chị bạn nghĩ rằng đó là lời nói sảng của một bệnh nhân. Có ngờ đâu khi về tới vườn của tu viện, chị ta thấy trên cành hồng một bông hoa cực kỳ xinh đẹp và thơm phức. Chị thán phục quyền năng của Thiên Chúa, Đấng yêu chiều tớ nữ thánh thiện của Ngài. Một hôm, chị Rita thèm ăn trái vả. Cây vả không bao giờ kết trái vào mùa đông. Thế mà chị xin và Chúa đã ban cho chị như lòng mong ước.
Ở tuổi 70, sức khỏe của chị lịm dần. Trong căn phòng tối tăm và nhỏ bé, đột nhiên rực sáng vì có Chúa Giêsu và Mẹ Người tới viếng thăm, mỉm cười như mời người tớ nữ trung tìn về hưởng phần vinh phúc dọn sẵn cho những kẻ yêu mến Chúa. Chị Rita hỏi: "Chúa ơi, chừng nào con mới được vĩnh viễn ở cùng Chúa?" Ngài đáp: "Ba ngày nữa!" Ba ngày! thời gian quá ngắn, nhưng đối với chị thì quá dài, chị xin được xức dầu và lãnh của ăn đàng. Cha tuyên uý tới xức dầu và trao của ăn đàng. Tay chị ôm chặt ảnh chuộc tội. Ngoài vườn rộ nở những bông hoa xinh đẹp. Lúc đó vào tháng hoa. Đúng ngày 22 tháng 5 năm 1457, nữ tu Rita được về hưởng nhan thánh Chúa. Rất nhiều người nhìn thấy linh hồn chị bay về trời trong vinh quang thần diệu. Chuông các nhà thờ chung quanh tự nhiên đổ dồn. Từ những vết thương nơi đầu toả hương thơm dịu dàng. Những vết gai nơi đầu lúc này toả luồng sáng thắm đẹp. Cánh tay cứng đờ lâu năm nay mềm mại có thể xoay động dễ dàng. Cả cộng đoàn quỳ tôn kính những dấu tích nơi mình của chị như hôn kính vết thương của Chúa vậy.
Ai tin được loan đi khắp vùng Cascia: "Vị thánh đã qua đời!" Các nữ tu muốn đặt xác chị tại hội trường tu viện. Dân yêu cầu phải quàn tại nhà thờ để mọi người được chiêm ngưỡng và được chạm tới thi hài thánh hiện. Thế là họ ruớc thi hài của vị nữ tu từ nhà nguyện ra nhà thờ xứ. Hương thơm nhân đức toả lan khắp miền. Đàn ong trắng trước kia bay lượn trên nôi của bé Rita nay lại xuất hiện trên quan tài. Đức Urbano VIII ao ước xem con ong trắng đó. Người ta thả một con vào lọ thuỷ tinh rồi gởi cho ngài. Sau khi kỹ lưỡng xem xét, ngài thả ong ra. Nó bay về tổ của nó tại tu viện và bầy ong vẫn còn tồn tại cho tới nay trong khuôn viên nhà dòng. Đàn ong đó đã trung thành với Rita kể từ thuở sơ sinh cho đến ngày qua đời. Người ta kể rằng về sau, chúng chia tổ và từng đàn xa rời tổ vào tuần thương khó, biến mất trong một thời gian và trở về vào ngày giỗ 22 tháng 5 mỗi năm.
Riêng thi hài của nữ tu này, khi còn sống chỉ là nắm da bọc xương với mùi hôi thối không ai chịu được, nhưng khi qua đời, vẻ mặt tuyệt đẹp xuất hiện, với mùi hương thơm dịu ngọt làm cho ai cũng cản thấy dễ chịu. Người ta quàn xác chị theo một thể thức đặc biệt: đó là để quan tài thông thoáng với nắp đậy bằng kính hy vọng mọi người có thể chiêm ngắm thi hài vô cùng xinh đẹp mà ca tụng Thiên Chúa. Khi an táng, giáo dân rất tiếc hình thể tươi đẹp của chị thánh và nhất là ước ao giữ được hương thơm ngào ngạt của vầng trán đã được Chúa in thương tích huyền nhiệm vô vàn.
(Nguồn: Truyện tranh "Thánh Nữ Rita")
Xem Phim