Tài Liệu Khác

Lời Chúa: Ge 2,12-18; 2Cr 5,20-6,2; Mt 6,1-6.16-18

MỤC LỤC

1. Hãy xé lòng - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

2. Lịch sử và ý nghĩa thứ tư Lễ Tro

3. Mùa chay và ơn cứu độ – ĐGM. Bùi Tuần

4. Bụi tro

5. Hoán cải

6. Ăn chay cách nào mới đẹp lòng Thiên Chúa?- JKN

7. Hãy xé lòng - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

8. Chú giải của Fiches Dominicales

9. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

10.Thứ năm sau Lễ Tro - Lc 9,22-25

11.Thứ sáu sau Lễ Tro - Mt 9,14-15

12.Thứ bảy sau Lễ Tro - Lc 5,27-32

13. Hảy thay đổi cách hành động

14. Sống tinh thần mùa chay

15. Suy niệm thứ tư lễ tro

16. Con người mùa chay

17. Hãy làm mọi việc vì ý ngay lành

 

**************************************

 

1. HÃY XÉ LÒNG- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.

Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.

Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.

Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.

Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,12b-13a).

Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.

Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.

Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?
  2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
  3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?
  4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?

 

2. LỊCH S VÀ Ý NGHĨA THỨ TƯ L Ễ TRO

LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Đầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.

3. MÙA CHAY VÀ ƠN CỨU ĐỘ – ĐGM. Bùi Tuần

Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.

Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:

Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,

Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,

Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,

Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,

Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,

Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…

Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.

Vậy ơn cứu độ là gì?

Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.

Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.

Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.

Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.

Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.

Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.

Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.

Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.

  • Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
  • Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.

Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).

  • Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).

Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).

Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).

Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.

Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).

Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).

Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.

Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.

|||

Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.

Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.

 

4. BỤI TRO

Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:

-         Hời người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.

Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.

Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:

-         Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.

Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.

Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:

-         Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.

Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?

Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.

Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.

Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.

Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:

-         Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.

Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.

Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.

Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.

5. HOÁN CẢI (Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)

Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.

Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:

-         Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

-         Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

-         Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.

Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:

-         Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.

-         Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.

Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:

-         Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.

-         Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.

-         Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:

Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó.

Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.

Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.

6. ĂN CHAY THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG THIÊN CHÚA?- JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
  2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
  3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?

Suy tư gợi ý:

1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo

Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.

  1. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.
  2. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
  3. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.

Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.

2. Tinh thần chay tịnh

Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).

Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.

Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.

Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.

3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.

Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.

7. HÃY XÉ LÒNG - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

 

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày. Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.

Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.

Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.

Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.

Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.

Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.

 

8. CHÚ GIẢI CỦA FICHES DOMINICALES

CHIA SẺ, CẦU NGUYỆN, CHAY TỊNH

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

Trong 5 phản đề liên tiếp. Đức Giêsu đề cao công chính mới chống lại "sự công chính của các kinh sư và Pharisêu". Trong bản văn sử dụng cho Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giêsu đề cập đến 3 cột trụ chống đỡ lòng đạo hạnh nơi người Do Thái cũng như nơi các tôn giáo khác: bố thí, ngày nay ta gọi là chia sẻ (câu1-4),cầu nguyện (câu5-6) và chay tịnh (câu16-l8)

Thay vì miệt thị những việc đạo đức ấy, Đức Giêsu, trước khi xem xét từng việc, đã chỉ ra tinh thần phải có khi thực hành: "nếu các ngươi muôn trở nên công chính, hãy tránh phô trương trước mặt người đời để được chú ý". Sự công chính đích thực hệ tại hiệu chính " theo thánh ý Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa biết rõ thâm tâm con người.

1. Sự chia sẻ dưới ánh mắt Chúa Cha

Claude Tassin giải thích: “Là một cơ chế quan trọng trong đạo Do Thái, sự bố thí vẫn giữ vị trí cứu trợ trong xã hội hiện đại, bày tỏ tình huynh đệ mà giao ước đòi hỏi. Việc cứu trợ người nghèo có hiệu quả tẩy xoá tội lỗi (Tb 1..,9), có giá trị như lễ hy sinh” (Hc 4,6; 7,10). Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Centurion, 1991, trg 72).

Đức Giêsu không bài bác linh đạo này, nhưng Người tố cáo tính cách phô trương khi thực hành. Bố thí không phải “để được người đời ca tụng" cũng không phải để trình diễn (đó là ý nghĩa chính xác của từ "giả hình"), nhưng phải làm "kín đáo, chỉ mình Chúa biết vì chỉ mình Người có thẩm quyền xét định giá trị của việc làm này: "Cha ngươi thấy rõ những gì ngươi làm trong kín đáo: người sẽ thưởng công ngươi".

Đức Cha Daloz cảm nhận: "Mối nguy hiểm mà Đức Giêsu khuyên ta tránh xa... đó là chú ý tới bên ngoài, tới những gì phô trương - đó không phải là mối nguy tưởng tượng ngay cả đối với thời nay, dưới những hình thức mới... Sự vô vị lợi, sự kín đáo không còn dễ giữ trong các cộng đoàn của Giáo Hội cũng như đong các hiệp hội đời: là hội viên, là hội trưởng, là người tổ chức ta đã chẳng bị cám dỗ qui về mình tất cả những dịch vụ, những công tác mà trong đó ta đã quảng đại phục vụ sao? Và ta đã chẳng bị cám dỗ khẳng định trước mặt người đời những quyền lợi, những giá trị: của mình sao?... Nhưng Đức Giêsu đã nói: "Thật vậy ta bảo các ngươi, họ đã nhận được phần thưởng rồi".

Điều ta không tìm giữ cho ta, Thiên Chúa mới tiếp nhận được. Vấn đề này không liên hệ gì tới lòng quảng đại... Cử chỉ chia sẻ mang trọn vẹn ý nghĩa trong tình yêu cho không. Chỉ có Chúa mới có thể tính sổ được tình yêu, vì thước đo tình yêu, là vô tận".

2. Lời cầu nguyện dưới ánh mắt Chúa Cha.

Cũng vậy, kinh nguyện đừng làm như "trình diễn" "để phô trương với người đời", nhưng là để ngỏ lời với "Cha, Đấng ngự trong nơi kín đáo": "Cha ngươi thấy tất cả những gì ngươi làm trong kín ẩn: Người sẽ thưởng công ngươi". Đức Cha Daloz nói tiếp: "Đức Giêsu không ngừng mời gọi ta hãy trở về với sự chân thực của tâm hồn, với nội tâm”.

Hãy sử dụng các phương tiện nhưng đừng làm tổn hại cuộc gặp gỡ sâu xa, cá nhân với Chúa Cha.. Vì việc gặp gỡ Thiên Chúa rất trọng đại, nên Đức Giêsu muốn ta tránh xa nguy cơ thay thế ánh mắt Thiên Chúa bằng ánh mắt người đời. Cầu nguyện "cho người đời thấy", thay vì cầu nguyện với Cha "Đấng thấy rõ trong nơi kín ẩn", đó là hạ giá lời cầu nguyện, là đi trệch khỏi mục tiêu. Là một hình thức tôn thờ ngẫu tượng khi lời cầu nguyện của ta thay hướng về Chúa lại qui về lợi lộc riêng tư của mình" (Sđd., trg 66).

3. Việc chay tịnh dưới ánh mắt Chúa Cha.

Còn về việc chay tịnh, Claude Tassin chú giải: "Căn bản đó là một dấu chỉ tang tóc. Chẳng hạn ta chay tịnh nhân ngày tưởng niệm Đền thờ bị tàn phá. Tuy nhiên, người Do Thái sùng tín còn biết đến một nguyên nhân tang tóc trầm trọng hơn một tai hoạ cho cả dân tộc, đó là tội lỗi, cái chết thực sự của mối liên hệ sinh tử với Thiên Chúa... Những người sùng tín gia tăng việc chay tịnh sám hối. Vì thế, những người biệt phái ăn chay mỗi tuần 2 lần. Họ còn thêm thắt những dấu hiệu cho tăng phần thảm não: Không tắm rửa, không xức thuốc thơm" (Sđd, trg 77).

Đức Giêsu không chối bỏ giá trị của những hình thức ấy. Nhưng Người cảnh giác các môn đệ trước những thực hành phô trương. Chay tịnh là đúng, nhưng không phải để cho người khác trầm trồ thán phục và "phô trương cho mọi người" biết là ta ăn chay, mà là chay tịnh dưới ánh mắt Chúa Cha, phó thác tất cả cho Người: “Cha ngươi Đấng thấy tất cả những gì ngươi làm trong nơi kín ẩn: Người sẽ thưởng công ngươi”.

Một lần nữa, khi tường thuật những lời nói của Đức Giêsu, Matthêu muốn cảnh cáo các Kitô hữu trung thành với những thực hành đạo đức mà ngài không phản đối, đừng tìm xây dựng danh giá cho bản thân mà hãy phó thác cho sự chứng nhận duy nhất của Chúa Cha.

Đức cha Daloz còn trấn an rằng: "Nguy cơ giả hình ít đe doạ ta lắm. Để giữ được ý nghĩa đích thực của việc chay tịnh Kitô giáo, cần phải có một loại phân định khác. Giữa một thế giới phức tạp đủ loại tôn giáo và tinh thần thế tục, thái độ đức tin thực sự đòi ta phải minh bạch trong ý nghĩa của việc chay tịnh. Chỉ cần trở về với giáo huấn của Đức Giêsu là đủ: Việc chay tịnh mà Người đề cập ở đây trước hết không phải là thanh tẩy hay giải phóng cá nhân, là nỗ lực hay khổ hạnh nhằm tiến xa hơn trong việc chế ngự bản thân. Cũng không phải là giải phóng tinh thần nhờ chế ngự thân xác, để ta có thể chiêm ngắm rõ hơn cái thực tại thần linh. Đức Giêsu cũng không trình bày việc chay tịnh như một phương tiện bày tỏ tình liên đới với những ai đói khát, hay. nhịn ăn bớt uống để chia sẻ. Tất cả những điều đó đều tốt và hữu ích, Giáo Hội, phụng vụ và các tác giả đạo đức vẫn khuyên ta nên làm... Việc chay tịnh đích thực đưa ta ra khỏi chính mình, bóc ta trần trụi trước mặt Thiên Chúa. Đó không phải là một thành tựu thiêng liêng... Đó là một cách thế giữ ta nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa, một hiến dâng chính bản thân nhờ nỗ lực khổ hạnh, nhưng trong Thiên Chúa, Đấng ban chính Người cho những ai, dù trong đêm tối và trần trụi, vẫn yêu mến tin tưởng sống dưới ánh mắt Người mà không tìm kết quả... Cũng như lời cầu nguyện, như việc bố thí, chay tịnh thực sự mà Đức Giêsu mời các môn đệ thực hành phải diễn ra trong nơi kín ẩn của mối tương giao với Chúa Cha, kín ẩn của đức tin” (sđd, trg 82).

BÀI ĐỌC THÊM

1. Mùa chay, thời gian tái thực tập sự tự do đích thực

(L Sintas, trong “Lời Chúa để suy niệm và dọn giảng. Năm C". Médiaspaul, trg 145).

Mùa Chay là thời gian thực tập, tái thực tập sự tự đo đích thực. Nếu Giáo Hội đã giảm nhẹ rất nhiều việc đền tội trong Mùa Chay, đó không phải để ta xao lãng việc hối cải đích thực. Trái lại, Giáo Hội muốn giúp ta sống việc hối cải dưới ánh mắt Thiên Chúa chứ không phải dưới sự kiểm soát của người khác, cho dù đó là những người anh em trong đức tin. Giáo Hội muốn ta nghe rõ hơn lời kêu gọi sống tự do mà chỉ có niềm phó thác trọn vẹn trong ánh mắt của Thiên Chúa mới có thể ban cho ta.

2. Hoán cải, thống hối và giao hoà được thực hiện bằng nhiều cách: ("Cử hành việc thống hối và hoà giải", Chalet-Tardy, trg 13).

Dân Thiên Chúa thực hành và hoàn thành việc thống hối liên lỉ này dưới nhiều hình thức khác nhau. Hiệp thông sự nhẫn nại của mình vào những đau khổ của Đức Kitô (1Pr 4,13), hoàn thành những công trình của lòng xót thương và của đức bác ái (1 Pr 4,8), khi hoán cải theo Tin Mừng Đức Giêsu Kitô mỗi ngày một hơn, ta trở nên dấu chỉ giữa thế gian về sự hoán cải trở lại với Thiên Chúa. Điều đó Giáo Hội diễn tả qua đời sống của mình và cử hành trong phụng vụ. Khi các tín hữu quây quần lại tự nhận mình tội lỗi, nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa và của anh em, như ta thường làm trong các nghi thức cử hành việc sám hối, trong việc công bố Lời Chúa, trong lời cầu nguyện, trong những phút sám hối khi cử hành thánh lễ.

Các Kitô hữu được mời gọi, cả riêng tư lẫn tập thể, đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng. Chẳng hạn như: Sự tha thứ cho nhau dưới những hình thức khác nhau.

-         Sự chia sẻ, dưới những hình thức tương trợ khác nhau, cũng như mọi cố gắng vượt thoát thói ích kỷ của mình.

-         Phản đối bất công và đấu tranh cho sự công bình lớn hơn trong những mối tương quan liên chủ thể và xã hội.

-         Sự dấn thân tông đồ đòi phải có tinh thần phục vụ và quên mình.

-         Cầu nguyện, dấu chỉ niềm hy vọng vào tương lai mà Thiên Chúa mở ra cho ta, vượt qua những đổ vỡ và những va chạm.

Tất cả những việc làm trên ngầm chứa sự dấn thân cá nhân của các Kitô hữu. Nhưng cuộc hoán cải và hoà giải mà mà Giáo Hội được mời gọi thực hiện còn quan trọng hơn cả tổng số những hoán cải cá nhân. Giáo Hội như một thân thể, được kêu mời thay đổi khuôn mặt và thái độ, trong một số trường hợp mà những thái độ tập thể của các Kitô hữu đã bị tố cáo. Thật vậy Giáo Hội không thoát khỏi gánh nặng như những phản ứng của các nhóm xã hội: phản ứng co rút lại, phản ứng loại trừ những người yếu ớt, những người sống ngoài lề xã hội. Tiếng gọi của Tin Mừng bị phản chứng mỗi lần ta khép kín cửa lòng trước người nghèo, người bị bỏ rơi.

 

 

 

 

9. CHÚ GIẢI CỦA GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN ĐÀ LẠT

LÀM VIỆC THIỆN TRONG ÂM THẦM

1. Văn thể của đoạn này có nhiều đặc điểm khiến ta dễ đi sâu vào ý hướng của Chúa Giêsu. Ngài nói ở Ngôi Hai, theo thói quen của các ngôn sứ và hiền nhân. Kiểu xen kẽ số ít và số nhiều cũng năng thấy trong những lời khuyến dụ của Cựu Ước (vd Đnl 4,11). Nó có hai mục đích: nói cho toàn dân và áp dụng cho mỗi thính giả. Ở đây Chúa Giêsu đòi hỏi từng môn đệ một thái độ cá nhân; Ngài đối chiếu nhóm tín hữu của Ngài với các kẻ giả hình, vì bài diễn từ của Ngài trước hết là một biện chứng. Đối lại với thái độ của bọn giả hình, Ngài xác định thái độ của các phần tử nước Trời. Ngài phác hoạ chân dung hai hạng với nhiều nét tiêu biểu. Hạng giả hình khua chiêng đánh mõ khi bố thí, đứng nơi công cộng lúc cầu nguyện, nét mặt thểu não cho mọi người thấy ta ăn chay. Còn môn đệ chân chính không nhớ việc mình bố thí, cầu nguyện kín đáo trong phòng, rửa mặt mày để việc mình ăn chay không ai biết.

Những chân dung ấy quả có phóng đại. Thời ấy không có ai có thói quen thổi kèn kêu lũ ăn xin đến. Lại không thể có chuyện tay trái chẳng biết việc tay phải làm. Tuy nhiên ở đây Chúa Giêsu không dạy những cử chỉ nhưng là một tinh thần. Điều Ngài kết án nơi hạng giả hình không phải là hành vi bố thí, việc cầu nguyện công khai, cũng chẳng phải là việc ăn chay, những điều mà Ngài đã thi hành và còn dạy cho các môn đệ (Ga 13,29; Mc 10,21; Mt 5,41; Lc 11,41; 12,33; 16,9; 19,8-9; Mt 6,9-13; 18,19-20; 4,2; Mc 2,20; và 9,29) nhưng là thói phô trương không qui hướng những hành vi đạo đức đó về Thiên Chúa. Điều Ngài đòi hỏi cũng không phải là những cử chỉ mà giá trị tuỳ thuộc ý hướng tâm hồn, nhưng là sự quên mình hoàn toàn, chỉ nghĩ đến Chúa Cha. Vì thế ở đây không có những huấn lệnh truyền làm việc này việc nọ, nhưng chỉ có những trường hợp điển hình, những thí dụ diễn tả một tinh thần.

2. Trong vấn đề bố thí, cầu nguyện và ăn chay, Chúa Giêsu lưu ý thính giả đề phòng hành vi của bọn giả hình (hupocritai). Ngài nhắm đến ai? Đến biệt phái, ta thường nghĩ thế. Sự đồng hoá không phải là vô căn cớ vì lòng sùng đạo hình thức của họ đi đến phô trương, và vì Chúa Giêsu nhiều lần gọi họ là bọn giả hình (Mt 15,7; 22,18; 23,13-29). Tuy nhiên, không chắc lời quở trách nhắm tất cả các người biệt phái và chỉ mình họ.

Việc chống lại kẻ giả hình là một đề tài thường xuyên của Chúa Giêsu cũng như của môi trường Ngài. Nhưng từ ngữ “giả hình” lúc ấy không hẳn có nghĩa như trong ngôn ngữ thời nay. Đối với chúng ta, giả hình là “làm bộ đạo hạnh, nhân đức, cao thượng bên ngoài mà trong lòng chẳng có chi” (Littre). Trong 16 đoạn Chúa Giêsu gọi các địch thủ Ngài là giả hình (hupoccritai), chỉ có một trường hợp giả bộ cố ý (Mt 22,18), ba lần Chúa Giêsu tố cáo sư mâu thuẫn giữa hành vi bên ngoài và thái độ sâu xa bên trong (Mt 15,7; 23,25.27). Những nơi khác, kẻ giả hình là kẻ mê muội, tội lỗi, vô đạo - không có vấn đề giả đò làm bộ (Mt 7,5; 23,13.14.15.23.29; 24,51; Lc 12,56; 13,35). Ở đây, Chúa Giêsu và các thính giả của Ngài nghĩ đến những kẻ vô đạo muốn tỏ ra họ nhân đức. những người này không tất nhiên là những kẻ giả đò, họ có thể thành tâm.

3. Thái độ của Chúa Giêsu ở đây gợi lại thái độ của các ngôn sứ trong Cựu Ước, những vị đã từng kết án một thứ phụng tự thiếu hẳn lòng thành tín bên trong. Thái độ bên ngoài, phù hợp với những đòi hỏi của giao ước, chỉ là cụ thể hoá lòng thành tín nội tại đó. Chúng ta hãy nhớ lại lời quở mắng ngôn sứ Isaia dành cho bọn giả hình thời ông: “Giâvê phán: muôn vàn của lễ các ngươi có can hệ gì đến ta? Ta đã chán chê của lễ thiêu bằng chiên đực và mỡ bò con... Thôi, đừng dâng của lễ vô ích cho Ta nữa... Đừng làm điều ác nữa. Hãy học làm điều lành, hãy tìm sự công chính, hãy cứu giúp kẻ hà hiếp, hãy công bình với kẻ mồ côi” (Is 1,11-17). Cũng vậy trong Am 5,21; Tv 50,8; 51,18-19...

KẾT LUẬN

Trước Chúa Giêsu, các ngôn sứ đã từng đòi hỏi phải phụng thờ Thiên Chúa cách vô vị lợi. Nhưng Chúa Giêsu mặc cho tính cách đó một nguyên nhân mới: Thiên Chúa là “Cha các ngươi”, “Cha ngươi” (Ngài lặp lại 6 lần trong các câu 6,1-6.16-18). Chính vì Thiên Chúa là Cha, nên phải nghĩ đến một mình Ngài và để mặc cho Ngài lo liệu phần thưởng. Như thế, Chúa Giêsu lấy lại mọi giá trị truyền thống Israel, nhưng Ngài kiện toàn bằng cách biến đổi chúng bằng sự mới mẻ mầu nhiệm của Ngài: “không một ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Chúa Giêsu kết án sự giả trá ghê tởm của một lối sống đạo đức bên ngoài phát xuất từ một tâm hồn kiêu căng, ưa tán thưởng. Bố thí cầu nguyện, ăn chay không có sức công chính hoá nếu chỉ là giả hình duy luật. Chính từ trong thâm tâm mà con người phải thực hiện sư hoán cải, sự trở về với Cha.
  2. Kitô hữu không được “tự thánh hoá” bằng những nỗ lực riêng tư nhưng phải mong chờ hồng ân công chính từ Cha mình, trong một tinh thần khiêm tốn đón nhận như tinh thần bát phúc.
  3. Để làm đẹp lòng Chúa Cha, chắc chắn phải thực hiện thánh ý Ngài và làm việc lành phúc đức ("không phải kẻ nói: Lạy chúa, lạy chúa là được vào nước trời đâu, song là kẻ thi hành ý Chúa Cha"). Nhưng từng ấy chưa đủ. Chính thái độ hiếu thảo, vô vị lợi đối với Cha trên trời mới làm cho những việc ấy mang tính cách thiện hảo. Nếu không, chỉ là trò múa rối. Cách thức duy nhất để trở thành con cái đích thực của Cha, là trở nên giống như Cha, hoàn toàn vô vị lợi.
  4. Người Kitô hữu không cần ẩn núp để làm việc thiện. Trái lại ánh sáng của họ “phải chiếu giãi trước mặt mọi người” để nhờ đó thiên hạ được dẫn tới Thiên Chúa. Nhưng đồng thời người Kitô hữu không được làm việc thiện trong chủ ý mong người đời biết đến và ca tụng, vì bấy giờ ánh sáng họ sẽ bị che lấp bởi kiêu căng và ích kỷ. Chỉ có một lòng chân thành hoàn toàn, một sự trong suốt đích thực mới làm cho ánh sáng mình thấu đến người khác.

 

 

 

 

10. THỨ NĂM SAU LỄ TRO - Lc 9,22-25

THẬP GIÁ CỦA CON NẶNG QUÁ!

Có một người ngoài Kitô giáo đã chỉ vào thánh giá và hỏi rằng: "Tại sao người Công giáo thờ một hình tượng ghê rợn và thê thảm như vậy?" Quả thật, đối vớiù người đời thì hình khổ thập giá là một điều đáng kinh hãi. Tuy nhiên Chúa Giêsu lại coi đó là phương thế duy nhất dẫn đến sự sống. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Đám đông nói Thầy là ai?", ông Phêrô tuyên xưng Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Chắc hẳn khi nói câu này, ông Phêrô nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ dùng quyền uy của Đấng Thiên Sai để tái lập thịnh vượng cho đất nước Do Thái. Nhưng trái với điều ông nghĩ, Chúa Giêsu báo cho các môn đệ biết trước Người sẽ hoàn thành sứ mạng thiên sai bằng con đường đau khổ và thập giá. Chúng ta cùng nhau nghe lại đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 9, 22-25 thuật lại câu chuyện này:

"Đức Giêsu bảo rằng: "Con Người phải chịu khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại". Rồi Người nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi ích gì?"

|||

Thích sướng ngại khổ, tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Ai lại chẳng muốn đời mình xuôi chèo mát mái, khỏi phải đương đầu với gian nan trắc trở. Là Kitô hữu, chúng ta cũng không ra ngoài tâm trạng đó. Lắm lúc chúng ta muốn sống đạo một cách khoẻ khoắn, không phải nhọc công gắng sức, không phải hy sinh khổ chế. Chúng ta mong ước quê trời, và chúng ta cũng mong ước đường lên quê trời cho thật êm ả! Lời Chúa ngày hôm nay đánh thức chúng ta khỏi tâm trạng cầu an đó. Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu muốn gởi đến cho mỗi người chúng ta trong mùa Chay năm nay là: "Ai muốn theo tôi".

Qua lời mời gọi trên đây, Chúa Giêsu muốn chúng ta xét lại cách chúng ta vẫn sống đạo hàng ngày. Chúng ta có thật sự sống theo tinh thần Tin mừng không, hay chúng ta chỉ là những Kitô hữu trên danh xưng? Chúng ta có thật sự sống chết vì đức tin không, hay đức tin cũng chỉ là một thứ gia vị thêm vào trong cuộc sống của chúng ta? Hôm nay, Chúa Giêsu muốn mỗi người chúng ta lựa chọn và xác định lại lập trường của mình trong việc sống đạo. Người muốn chúng ta có một quyết định dấn thân quyết liệt và dứt khoát, chứ không chỉ giữ đạo ngoài đầu môi chót lưỡi, hoặc giữ đạo theo thói quen. Người muốn chúng ta thật sự lên đường theo Người tiến về quê trời.

Tiếp theo lời mời gọi lên đường, Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta các điều kiện để vững vàng tiến bước. Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.

Người ta kể một câu chuyện vui như sau: Có một người nọ than vãn với Chúa Giêsu rằng cây thập giá mình đang vác nặng nề quá, còn những cây thập giá của một số người khác thì lại nhẹ nhàng hơn. Chúa Giêsu bảo người ấy đem cây thập giá kia vào kho, rồi cho người ấy tự do lựa chọn một cây khác thích hợp với mình. Sau một thời gian lựa lọc, người ấy chọn được cây thập giá ưng ý và hí hửng đem tới khoe với Chúa Giêsu. Ngài mỉm cười và nói: "Đây chính là cây thập giá mà con đã bỏ vào kho hồi nãy!"

|||

Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, con người đánh mất niềm an vui hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho thuở ban đầu. Vì phạm tội, con người bị đuổi khỏi vườn địa đàng, là nơi họ được hưởng hạnh phúc bên Chúa. Ở ngoài vườn địa đàng, con người phải tự lực cánh sinh. Đàn ông phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để có cơm ăn áo mặc. Đàn bà phải mang nặng đẻ đau để lưu truyền nòi giống. Kể từ đó, con người phải liên tục đối đầu với những khó khăn và trở ngại trong cuộc sống. Đau khổ và thập giá là hậu quả của tội lỗi. Con người tìm mọi cách, nhưng không tài nào thoát ra được. Nếu Thiên Chúa không ra tay cứu vớt thì nhân loại phải muôn đời sống trong khổ ải.

Vì yêu thương, Đức Giêsu Kitô đã xuống thế làm người. Ngàøi đã mang lấy thân phận con người như chúng ta, để chia sẻ những đau khổ và thập giá của chúng ta. Sau cùng, Người đã dùng chính cái chết và sự sống lại của mình để đánh bại tội lỗi và sự chết. Nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu, đau khổ và thập giá mang một ý nghĩa mới. Vất vả cực nhọc vẫn còn đấy. Nhưng chúng không đè bẹp được những ai tin vào ơn cứu độ của Người. Trái lại, chúng trở nên những cơ hội giúp con người thanh luyện và thăng tiến bản thân. Như một vận động viên leo núi, để lên cao, người ấy phải tốn nhiều sức lực và mồ hôi, có khi còn kèm thêm máu và nước mắt. Nhưng đổi lại, người ấy được hưởng niềm vui chinh phục đỉnh cao. Nếu ngại khổ ngại khó, người ấy sẽ đứng mãi dưới chân núi mà ôm ấp giấc mộng không thành!

Cuộc sống đạo của chúng ta cũng tương tự như thế. Để theo chân Đức Giêsu tiến lên đỉnh Can-vê, chúng ta cũng phải trải qua bao gian lao vất vả. Hành trình đức tin là một hành trình leo ngược lên con dốc sa ngã mà ngày xưa tổ tông chúng ta đã lao xuống. Con đường đi lên đòi hỏi phải nỗ lực không ngừng. Có khi phải chấp nhận tủi nhục, phải gánh chịu thiệt thòi. Thoạt nhìn từ bên ngoài, thập giá mà mỗi người chúng ta đang vác đôi khi nặng nề quá sức mình, và đôi lúc có vẻ phi lý. Thế nhưng câu chuyện vui mà chúng ta vừa nghe trên đây nhắc chúng ta nhớ rằng: những gian khổ mà chúng ta phải trải qua chính là những phương tiện thích hợp giúp chúng ta nên thánh. Chúa không trao cho chúng ta những thập giá vượt quá sức của chúng ta. Khi trao thập giá, Người luôn ban cho chúng ta các ơn cần thiết giúp chúng ta vác được nó mà đi theo Người. Nếu chúng ta thấy thập giá của mình quá nặng nề, ấy là vì chúng ta chỉ vác nó với sức riêng của chúng ta thôi. Chúa Giêsu biết rõ điều này nên Người dạy chúng ta phải từ bỏ chính mình trước đã rồi mới vác thập giá. Khi từ bỏ chính mình, chúng ta sẽ cậy dựa vào Chúa, sẽ bước đi dưới sự nâng đỡ của Chúa. Nhờ ơn phù trợ ấy, chúng ta sẽ vác được thập giá của mình và mạnh dạn theo Chúa lên đỉnh đồi Can-vê, can đảm chịu đóng đinh với Người để được cùng sống lại với Người.

Lạy Chúa, đứng trước thập giá, ai mà không ngại ngùng run sợ. Có ai dám tự hào là mình sẽ hiên ngang vui vẻ vác lấy nó? Chúa biết rõ con là con người yếu đuối, hay ngại khổ ngại khó. Xin ban cho con ơn can đảm và quảng đại, để con hăng hái vác thập giá hằng ngày mà tiến bước theo Chúa. Xin Chúa cho con hiểu và sống lời Chúa dạy: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy". Amen.

 

11. THỨ SÁU SAU LỄ TRO - Mt 9,14-15

TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI

Ăn chay là một trong ba việc làm chính để tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng, trong bài Tin mừng mà chúng ta sắp nghe sau đây, ăn chay lại là một đề tài tranh luận giữa các môn đệ của ông Gioan và Chúa Giêsu. Bài Tin mừng theo thánh Matthêu 9,14-15 thuật lại việc này như sau:

"Bấy giờ, các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?" Đức Giêsu trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay."

|||

Để có thể hiểu cuộc tranh luận này một cách rõ ràng hơn, chúng ta cùng nhau tìm hiểu sơ qua về việc ăn chay của thời bấy giờ: theo sách Lêvi 16,19-31 thì luật cũ chỉ buộc người Do Thái ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội. Đến thời Chúa Giêsu, ngoài việc giữ chay mỗi năm một lần này, người ta còn tự nguyện giữ những ngày chay chung vì những lý do khác. Ngoài ra, một số người đạo đức còn giữ thêm những ngày chay riêng, như nhóm Pharisêu ăn chay một tuần hai lần.

Như vậy, việc ăn chay mà các môn đệ ông Gioan thắc mắc ở đoạn Tin mừng trên đây là việc giữ chay riêng vì lòng đạo đức, chứ không phải vì luật buộc. Đức Giêsu và các môn đệ của Người không phủ nhận giá trị của việc ăn chay theo truyền thống, bởi chính Người cũng đã vào hoang địa ăn chay bốn mươi đêm ngày trước khi ra đi rao giảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới của thời Đấng Thiên Sai, Đức Giêsu muốn nhắc lại rằng mục đích chính của việc ăn chay trong thời Cựu ước là để chờ đón Đấng Mêsia. Hiện nay, việc họ tự nguyện ăn chay là tốt, nhưng có một việc còn tốt hơn: đó là nhận biết Đức Giêsu Na-da-rét chính là Đấng Mêsia mà Chúa Cha sai đến để cứu độ trần gian.

Để giúp các môn đệ ông Gioan có thể mở lòng ra mà nhận biết Người, Đức Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi gợi ý: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ?" Nếu những người môn đệ này của ông Gioan đã có mặt khi xảy ra cuộc tranh luận trước đây giữa các bạn đồng môn và một người Do Thái về việc thanh tẩy, hẳn họ sẽ nhớ ngay lại lời thầy mình đã nói về Đức Giêsu như sau: "Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn chú rể, đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn". Phải, Đức Giêsu chính là chú rể trong tiệc cưới Nước Trời. Bao lâu có Đức Giêsu ở cạnh, thì bấy lâu họ không phải âu sầu phiền não. Chỉ khi nào mất Chúa họ mới phải ăn năn khóc lóc thôi!

|||

Chúa Giêsu đã rất sát với đời thường khi đưa ra hình ảnh tiệc cưới và chú rể để nói về Nước Trời và bản thân Người. Vâng, tiệc cưới là một hình ảnh quá quen thuộc với chúng ta. Ở bất cứ nơi nào thời nào, ngày cưới luôn luôn là một ngày trọng đại, một ngày vui vẻ cho gia đình. Và các nhân vật chính luôn là chú rể và cô dâu. Phải, Nước Trời là một bữa tiệc cưới, trong đó Đức Giêsu chính là chàng rể, và Giáo Hội chính là cô dâu. Sự kết hợp giữa Đức Giêsu và Giáo Hội mang lại hạnh phúc và hoan lạc đời đời cho những ai tham dự tiệc cưới đó, tức là cho những ai gia nhập vào gia đình Giáo Hội. Khi một gia đình có tiệc cưới, mọi thành viên trong gia đình đều vui mừng phấn khởi. Ai cũng muốn bắt tay vào việc, mỗi người tuỳ sức mình mà đóng góp cho niềm vui chung. Trong ngày đó, ai cũng trở nên dễ mến dễ thương, ai cũng trở nên ân cần tử tế. Nhờ sự hiện diện của chú rể, không khí trong nhà đượm nét đầm ấm và vui tươi. Tất cả mọi ưu tư phiền muộn đều tạm gác lại. Mọi người tập trung tận hưởng niềm vui của ngày hôn lễ. Đâu cũng nghe tiếng cười. Đâu cũûng thấy đèn hoa.

Là con cái của Giáo Hội, chúng ta đang được tham dự tiệc cưới của Đức Kitô và Giáo Hội. Đức Kitô đã phục sinh vinh hiển, đã được Chúa Cha trao ban danh dự và vinh quang. Còn Giáo Hội, vì đang lữ hành dưới trần gian, nên vẫn còn mang nơi mình những tì tích và khuyết điểm của con cái. Giáo Hội đang cố gắng thanh tẩy và canh tân để ngày càng trở nên hiền thê xứng đáng của Đức Kitô. Trong nỗ lực này, Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta sám hối và canh tân. Vào những năm cuối thế kỷ 20, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã liên tục đưa ra những sáng kiến táo bạo để thúc đẩy Giáo Hội tiến sâu và tiến nhanh hơn trong công cuộc sám hối và canh tân này. Chính trong Năm Thánh 2000, Ngài đã cùng Giáo Hội thực hiện rất nhiều việc cụ thể, đáng lưu ý là việc tổ chức những ngày thánh cho các ngành giới. Trong những ngày ấy, tất cả mọi con cái Giáo Hội đều được mời gọi tham gia tích cực vào việc thanh tẩy bản thân để trở nên con người mới. Qua các phương tiện thông tin, chúng ta đã cùng hiệp thông với nhau, đã chia sẻ cho nhau những hồng ân mà mình nhận được trong những ngày trọng đại ấy.

Hình ảnh Giáo Hội lữ hành chen vai sát cánh trên hành trình về quê trời là một hình ảnh tuyệt đẹp. Trong đoàn lữ hành này, mỗi người nương tựa vào Chúa Kitô và vào nhau để tiến bước. Chúng ta cũng có thể liên tưởng đến hình ảnh một gia đình đang nắm tay nhau đi dự tiệc cưới Nước Trời. Con đường đến nơi dự tiệc còn xa. Những gian nan trắc trở còn nhiều. Trên con đường lữ hành này, chúng ta cần nhiều trạm dừng chân để bồi bổ dưỡng sức. Những ai đau yếu cần được thuốc thang chữa trị. Những ai yếu mệt cần được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Mùa Chay năm nay là một trong những trạm dừng chân đó. Các việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay là những phương thế để chúng ta chữa trị và bồi bổ cho linh hồn mình thêm mạnh khoẻ. Ước mong sao mỗi người chúng ta vận dụng được những phương thế này một cách hữu hiệu, để sau chặng nghỉ chân, chúng ta tiếp tục hành trình một cách vững vàng hơn.

Lạy Chúa Giêsu, ngôn sứ Êlia kiên cường biết bao mà cũng đã có lúc mệt lả đuối sức trên đường lên núi Khô-rếp, huống chi con là những kẻ yếu hèn. Xin Chúa giúp con sống mùa Chay năm nay một cách nghiêm túc, để nhờ được chữa trị và bồi bổ bằng các việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay, con hân hoan tiến bước theo Chúa trên hành trình đến dự tiệc vui Nước Trời. Amen

12. THỨ BẢY SAU LỄ TRO - Lc 5,27-32

CUỘC GẶP GỠ ĐỊNH MỆNH

Trong cuộc sống, gặp gỡ nhau là việc thường tình. Tuy nhiên, có những cuộc gặp gỡ làm thay đổi vận mệnh của một đời người. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Lêvi là một trong những trường hợp đó Chúng ta cùng nghe câu chuyện này trong Tin mừng theo thánh Luca 5,27-32:

"Sau đó, Đức Giêsu đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lêvi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: "Anh hãy theo tôi!" Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lêvi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các ngài. Những người Pharisêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giêsu rằng: "Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?" Đức Giêsu đáp lại họ rằng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn".

|||

Trong tất cả các cuộc hoán cải được thuật lại trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn là Đấng ngỏ lời đầu tiên. Trong thời Cựu ước, Giavê Thiên Chúa thường khiển trách nặng lời và đe doạ trừng phạt để thức tỉnh kẻ tội lỗi. Còn trong thời Tân ước, Đức Giêsu thường kêu gọi một cách khoan dung nhân từ để giúp người có tội sám hối canh tân.

Trở lại với câu chuyện ông Lêvi, chúng ta biết rằng trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, những người làm nghề thu thuế bị dân chúng ghét bỏ và liệt vào hạng tội lỗi. Ông Lêvi là một nhân viên thu thuế, và người ta nhìn ông với cặp mắt đầy ác cảm. Sự ác cảm này không phải là vô cớ, vì khi làm nghề thu thuế, hầu chắc ông khó tránh được những lần lem nhem tiền bạc, đút lót đầu này ăn chận đầu kia. Sống chung với những người thu thuế, làm sao ông có thể tránh được những thói hư tật xấu của họ? Ông cha ta có nói: "Gần mực thì đen", câu nói này chắc cũng không ngoa! Có tiền có quyền thì dễ có cơ hội giao du với những người xa hoa phóng đãng. Số bạn bè mang tiếng là "bọn thu thuế và quân tội lỗi" đến dự tiệc tại nhà ông hôm ấy có thể minh chứng phần nào cho điều này.

Tuy hành nghề thu thuế, tuy sống lăn lộn với giới bất lương tội lỗi, nhưngõ thâm tâm ông luôn cảm thấy bất an. Ông cảm thấy đời mình có cái gì đó không ổn, có cái gì đó cần phải bỏ đi, có cái gì đó cần phải sửa sang chỉnh đốn lại. Ban ngày ông ra bàn thu thuế loay hoay với tiền bạc, với những kẻ trên cúi dưới lòn. Nhưng đêm về, đối diện với chính mình, ông thấy buồn da diết: tiền bạc không mang lại cho ông niềm vui đích thật! Từng đêm rồi lại từng đêm, ông dằn vặt khổ sở vì những ý nghĩ tốt xấu cứ đấu tranh dai dẳng trong tâm hồn. Ông muốn tìm cho mình một lối thoát, thế nhưng cái thòng lọng của nghề nghiệp, của lợi nhuận vẫn cứ xiết chặt lấy ông.

Mấy hôm rồi, quanh bàn thuế, ông nghe người ta nói nhiều đến một Thầy Giêsu nào đó đã mang lại an vui cho nhiều người. Lêvi nửa tin nửa ngờ: Thầy Giêsu là ai mà có thể làm được điều đó? Ông tò mò tìm hiểu và nghe được rất nhiều điều thú vị. Ông thầm ước mong mình có cơ hội gặp được vị Thầy có sức cảm hoá ấy, nhưng công việc bàn thuế và các mối giao lưu nghề nghiệp cứ chiếm hết giờ của ông!

Thế rồi hôm nay, một ngày định mệnh của đời ông: Thầy Giêsu đi ngang trạm thu thuế, thấy ông và gọi ông. Không chần chừ, ông đứng dậy đi theo Người, liều mất cả việc làm béo bở, liều chịu mọi hậu quả rắc rối có thể xảy đến sau này.

Lêvi đã khởi sự tiến trình hoán cải. Ông đã cương quyết rời bỏ bóng tối để đi ra miền đất ánh sáng. Ông cương quyết làm lại cuộc đời. Cơ hội đã tới, ôÂng phải bám lấy nó, không thể để cơ hội hiếm hoi này vuột khỏi tay ông. Ông đã quá ngán ngẩm những đêm dài trằn trọc. Phải cương quyết ra đi thôi. Ông về nhà tổ chức một bữa tiệc lớn, mời Thầy Giêsu, các môn đệ của Thầy và các thân bằng quyến thuộc của mình đến chung vui, để nói lên quyết định trọng đại của mình, để từ giã họ mà đi theo vị thầy mà ông tin là sẽ mang lại cho đời mình niềm hạnh phúc an vui đích thật.

Bữa tiệc vui này lại làm xốn xang những người Pharisêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ. Vốn tự xưng là công chính, những người này mới lẩm bẩm trách tại sao các môn đệ của Chúa Giêsu lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi! Những người Pharisêu và những kinh sư này không muốn hoán cải và cũng không muốn thấy những người khác hoán cải! Chúa Giêsu điềm tĩnh trả lời: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn ".

|||

Tiến trình hoán cải là con đường trở về được Thiên Chúa vạch ra cho chúng ta, là những tội nhân. Tiến trình này cho chúng ta thấy lòng thương xót bao la của Thiên Chúa biểu lộ qua Đức Giêsu Kitô. Người không đến để luận tội chúng ta, nhưng để vạch cho chúng ta thấy tội lỗi của mình mà hoán cải, hầu được giải thoát khỏi vòng cương toả của tội lỗi và được sống an vui thanh thản. Qua các câu chuyện thuật lại trong các sách Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu luôn tìm dịp đến với những người tội lỗi. Người lân la chuyện trò với họ. Người cùng ăn cùng uống với họ, để khơi dậy nơi họ niềm hy vọng vươn lên khỏi tình cảnh đáng thương của mình. Và khi kẻ tội lỗi đã có thiện chí hoán cải, Người luôn tạo cơ hội thuận tiện để giúp họ làm lại cuộc đời.

Chúng ta là những tội nhân trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Vì là người có tội, chúng ta thường mang nhiều mặc cảm. Chúng ta muốn vươn lên, muốn thoát ra khỏi tình trạng đáng buồn của mình. Nhưng có lúc chúng ta không đủ can đảm, có lúc lại chẳng có ai chìa tay ra nâng đỡ chúng ta! Chúa Giêsu hiểu rõ tâm trạng này. Người là vị Lương Y từ ái sẵn sàng ra tay cứu chữa mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Người là vị Mục Tử nhân lành biết rõ từng con chiên của mình. Người sẵn sàng tạm rời chín mươi chín con chiên đã yên ổn trong đàn để đi tìm một con chiên lạc, và đưa nó trở về sum họp với đàn.

Lạy Chúa, con là một tội nhân hư hỏng. Những tội lỗi mà con quen phạm cứ mãi dằn vặt trong tâm hồn con. Con rất muốn dứt bỏ những tội lỗi ấy. Nhưng rồi con cứ sa đi ngã lại mãi, khiến nhiều lúc con nản chí muốn buông xuôi. Nhân mùa Chay này, xin Chúa giúp con đảm đứng dậy như ông Lêvi, đi ra khỏi vùng đất tối tăm của sự chết, để theo Chúa tiến về miền đất ánh sáng của sự sống muôn đời. Amen.

13. HÃY THAY ĐỔI CÁCH HÀNH ĐỘNG – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Lọai bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.


Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Đó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiệt”.


Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như BinLaden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bình để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.


Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: “Hãy sám hối”. Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Đừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Đừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Đừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Đừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. “Hãy thay đổi cách hành động” cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Đừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Đừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.


Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện “xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ”, thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện “xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ”. Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.


Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ “một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi”. Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Đấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen

 14. SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY  Lm Đỗ Xuân Quế, OP

Chúng ta đã vào Mùa Chay. Cũng như mọi năm, Mùa Chay bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kéo dài trong 40 ngày. 40 ngày này nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, đón nhận cái chết và mừng ngày Phục sinh của Người. Ngòai ra, Mủa Chay còn nhắc cho chúng ta thời gian 40 đêm ngày Chúa ăn chay cầu nguyện, trước khi công khai ra truyền đạo, để mặc khải cho nhân lọai sứ mệnh cứu nhân độ thế của Người. Trong Mùa Chay, Hội thánh muốn đón nhận sứ điệp cứu độ với một tấm lòng quảng đại đặc biệt. Vì thế, Hội thánh rất chú ý lắng nghe những lời của Chúa Ki-tô loan báo Nước Thiên Chúa. Lời nói cuối cùng của Người chính là cái chết trên cây thập tự để làm lễ giao hòa chúng ta với Thiên Chúa.


Vậy có ba ý tưởng chính cho chúng ta suy nghĩ và đem ra thực hành trong Mùa Chay.


1.Thánh giá

Trong Mùa Chay, mọi người chúng ta phải chú ý đặc biệt nhìn lên thánh giá để tìm hiểu thêm ý nghĩa hùng hồn mà thánh giá muốn nói với chúng ta. Khi nhìn lên thánh giá, chúng ta không chỉ nhớ lại những biến cố đã xẩy ra cách đây hơn hai ngàn năm mà còn đón nhận một bài học gửi cho thời đại chúng ta, cho người ngày nay vì “Đức Ki-tô hôm qua cũng như hôm nay và muôn đời vẫn là một” (Dt 13,8). Thánh giá của Người là một lời kêu mời mạnh mẽ thúc giục chúng ta ăn năn hối cải và thay đổi đời sống, vì chính Ngừoi đã bằng lòng chịu chết treo trên cây thập tự để cứu chuộc chúng ta, để biến đổi chúng ta từ tình trạng là những kẻ thù nghịch với Thiên Chúa trở nên con cái và thừa hưởng gia nghiệp muôn đời. Cho nên, chúng ta phải coi lời kêu gọi này là gửi đến cho mỗi người và mọi người nhân dịp Mùa Chay. Nói khác đi, sống Mùa Chay có nghĩa là nhờ Chúa Giê-su mà thay đổi đời sống và qui hướng về Thiên Chúa.


2. Cầu nguyện

Ý tưởng thứ hai là cầu nguyện. Trong Tin Mừng, rất nhiều lần Đức Giê-su nói đến cầu nguyện và gắn liền cầu nguyện với thay đổi đời sống. Phải cầu nguyện, tiếp xúc với Thiên Chúa mới mong thay đổi được đời sống, vì nhờ cầu nguyện, con người chúng ta được lay động thức tỉnh, do đấy nhìn ra những điều cần phải thay đổi trong đời sống của mình mà ăn năn hối cải. Trong Mùa Chay, chúng ta phải cầu nguyện, cố gắng cầu nguyện, tìm ra thời giờ và những nơi để cầu nguyện. Cầu nguyện đưa chúng ta ra khỏi thái độ dửng dưng và làm cho chúng ta nhậy cảm với những điều có liên quan đến Chúa và các linh hồn. Cầu nguyện cũng giáo dục lương tâm chúng ta và Mùa Chay rất thích hợp cho công việc này. Trong Mùa Chay, Hội thánh nhắc bảo chúng ta phải xưng tội để lương tâm được trong sạch mà sống mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Ki-tô, không phải trong phụng vụ mà thôi nhưng trong cả tâm hồn nữa.


3. Ăn chay, chia sẻ

Làm phúc, bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. An chay không chỉ có nghĩa là bớt ăn hay không ăn mà còn có nghĩa là thắng mình, là đòi hỏi với chính mình, sẵn sàng từ chối ăn uống và chấp nhận hy sinh những vui thích.Và làm phúc có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những nỗi đau thương của họ vơi nhẹ đi.


Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khỗ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Chúa Ki-tô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han.” (Mt 25, 35-36)


Trong Mùa Chay, chúng ta thường nghe đọc :”Đây là lúc Chúa thi ân, đây là ngày Chúa cứu độ. ” Vậy chúng ta hãy tận dụng thời gian này vì là thời thuận tiện và là thời Chúa ban ơn để chúng ta sám hối và tin vào tin Mừng như Chúa dạy : “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào tin Mừng.” (Mc 1, 15)

 15. SUY NIỆM THỨ TƯ LỄ TRO – Lm. Ignatio Trần Ngà

Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư.

Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.


Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II S 11)


Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I V 11, 1-13).


Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối : hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…


Cá thì dễ ươn, thây ma thì mau thối, con người thì rất dễ hư ! 
Triết gia Platon diễn tả thân phận con người "như cỗ xe có hai ngựa kéo". Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.


Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài: "Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét", …thật khốn thân tôi!”


Nhân loại phải mất hàng triệu năm tiến hoá mới có thể thoát ra khỏi hang động và đời sống man rợ, nhưng con người ngày nay chỉ cần vài phút yếu lòng là có thể trở về với đời sống man rợ đó.


Dường như thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.


Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su

Cuộc đời chúng ta cũng giống như những con thuyền bơi ngược dòng, phải luôn luôn vững tay chèo lái, phải luôn quyết tâm vươn về nguồn mà không để đời mình trôi xuôi theo dục vọng, thì mới có thể tiến về nguồn là Chúa Ki-tô.


Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.


Khi làm người, Chúa Giê-su mang thân phận con người hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).


Y chí chúng ta vốn mềm yếu. Xác thịt thì quá nặng nề. Đam mê tội lỗi luôn thôi thúc lôi kéo chúng ta xuống vực. Những quyến rũ ở đời dễ làm chúng ta ươn thối…


Chúng ta thừa biết rằng tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ. Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su, với Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su, hãy để cho lời Ngài nên khí cụ giúp ta chiến đấu. Hãy rước lấy Mình Máu thánh Ngài hằng ngày để kết hiệp gắn bó với Ngài hơn. Và một khi có Ngài ở bên chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa như Ngài.

 16. CON NGƯỜI MÙA CHAY – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.

Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.


Sách Giảng Viên viết rằng :"Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo :

"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau" (Nguyễn Du).


Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định :

”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.

Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi” (Ca dao).

“Bèo dạt, mây trôi đành với phận” (Chu Mạnh Trinh)

Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến ?


Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.


Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (Mt 6,1-6).


Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Hình thức nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay này. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.


Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư.


Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?


Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời. Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì ! Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích. Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người. Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng : Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.


Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.


Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về : tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.


Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về. Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.


Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.


Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc niểm hạnh phúc hân hoan. Trong Sứ điệp Mùa Chay 2007, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã nói về tình yêu cứu độ của Đức Kitô:”Chính trong mầu nhiệm Thánh Giá mà quyền lực áp đảo của lòng thương xót của Cha trên trời được mặc khải trong tất cả sự viên mãn của nó. Để chuộc lại tình yêu của tạo vật Người, Người đã chấp nhận trả một giá rất cao: máu của chính Con Một Người. Sự chết, đối với Adam đầu tiên là một dấu tột đỉnh đến sự cô độc và sự bất lực, như vậy đã biến thành hành vi yêu thương và tự do tột đỉnh của Adam mới”.


Đức Thánh Cha gởi tâm tình của ngài qua sứ điệp: Mong sao mùa Chay đối với mọi Kitô hữu là một kinh nghiệm mới về tình yêu của Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Chúa Kitô, một tình yêu mà mỗi ngày tới phiên mình chúng ta phải “ban lại” cho người thân cận chúng ta, cách riêng cho người nào chịu đau khổ nhiều nhất và đang gặp túng thiếu. Chỉ bằng cách này chúng ta sẽ có khả năng tham gia đầy đủ trong niềm vui Phục Sinh.


Bắt đầu mùa Chay năm nay cũng là lúc chúng ta đang bước vào một năm mới, năm Đinh Hợi 2007. Với tình yêu Chúa Kitô, chúng ta sẽ luôn là một con người bình an, thư thái, tự chủ. Từ đó chúng ta sống một mùa Chay thánh thiện và một mùa Xuân ân phúc.

17. HÃY LÀM MỌI VIỆC VÌ Ý NGAY LÀNH – Lm Hưng Lợi, CSsR

Bắt đầu đi vào mùa chay, Hội Thánh luôn kêu mời con cái sám hối, quay trở về với lòng mình để kết hợp với Chúa, nhìn lên Chúa là cha tình thương, noi gương Ngài mà sống đời Kitô hữu tốt đẹp. Mùa chay 2007, người Kitô hữu hãy hướng về Chúa, đặc biệt người Kitô hữu Việt Nam đang sống thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:” Sống yêu thương và phục vụ “. Lời Chúa là đèn soi bước chúng ta đi, sống yêu thương và phục vụ sau khi đã nghiền gẫm lời Chúa là điều quí hoá và cần thiết nhất là trong mùa chay này.

CON NGƯỜI LÀ BỤI TRO, BÙN ĐẤT:

Đọc lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta như được dẫn vào một cuộc sáng tạo tuyệt vời của Thiên Chúa, qua việc tạo dựng và sáng tạo của Thiên Chúa tối cao, con người nhận ra mình được dựng nên bằng bùn đất và bằng hơi thở của Thiên Chúa. Đã được sinh ra bởi bùn đất ắt có ngày phải trở về với bụi tro. Do đó, Hội Thánh dùng việc xức tro và nhận tro để nói lên rằng:” Con người là tro bụi một mai sẽ trở về với bụi tro “. Nghi lễ này gây ý thức cho người Kitô hữu trong mùa chay. Mùa chay là mùa sám hối, ăn chay, mùa xưa kia Giáo Hội ăn chay cả mùa, ngày nay chỉ còn ăn chay hai ngày là thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh, nên ta nên dùng mùa 40 ngày để chỉ mùa chay. Xưa các tội nhân phải ăn chay suốt mùa và mặc áo nhặm không được tham dự công khai các nghi lễ với những người khác. Nay, Hội Thánh tở chức lễ rắc tro trên đầu và mặc áo nhặm để đưa các tội nhân muốn thống hối vào mùa ăn chay đền tội. Chính vì thế, khi nhận tro trên đầu, linh mục chủ tế đọc: “ Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “. Mọi người đều cúi đầu để nhận tro biểu hiệu cho sự mỏng dòn và cát bụi của thân phận làm người. Câu hát “ Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro một mai người sẽ trở về bụi tro” luôn gợi lại cho chúng ta về sự yếu hèn và kiếp sống phù du của con người.


CHÚA ĐƯA RA THÍ DỤ VỀ BA VIỆC LÀNH PHÚC ĐỨC: BỐ THÍ, CẦU NGUYỆN, ĂN CHAY :

Ba việc lành này là những điều rất tốt Chúa khuyên con người làm nhưng với ý hướng ngay lành. Tuy nhiên, nếu cầu nguyện, bố thí và ăn chay làm để phô trương, khoe khoang, giả hình với ý để cho người khác biết, khen, tâng bốc thì những việc lành này sẽ trở thành không tốt. Những việc lành này các người Pharisiêu đã làm nhưng làm để khoe, để phô trương, họ đã được khen rồi, họ đã lãnh phần thưởng rồi. Do đó, Chúa bảo chúng ta đừng làm như họ, chúng ta cứ làm bình thường, làm âm thầm dù người khác không biết nhưng chắc chắn Chúa biết và Ngài sẽ thưởng công cho chúng ta. Theo tâm lý, khi làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng muốn người khác biết, được người khác khen ngợi, đề cao. Tuy nhiên, Chúa bảo chúng ta đừng làm với ý hướng đó mà phải làm với ý ngay lành, với tâm hồn đạo đức và thánh thiện. Việc chúng ta làm tuy rất tốt nhưng khi chúng ta vì ý phô trương, khoe khoang, tự mãn, tự cao, chúng ta chẳng được công nghiệp gì trước mặt Thiên Chúa. Chính vì thế, việc làm dù nhỏ mọn, chúng ta làm theo ý Chúa, sẽ được Chúa ghi công, chúc lành, còn ngược lại dù việc lớn lao nhưng ta làm với ý không ngay lành, Chúa sẽ không chúc lành.


Thí dụ Chúa đưa ra trong đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta, nhắc nhớ mọi người công phúc có được Chúa ghi hay không là do các thức và ý hướng chúng ta làm các công việc ở trần gian này. Chúa ghét nhất thói giả hình. Chúng ta có mắc phải chứng giả hình hay không ?


Lạy Chúa, xin gia tăng lòng tin để chúng con luôn tin vào Chúa và giúp chúng con biết sám hối ăn năn để trở nên người tốt. Amen.

Sưu tầm