100 Bài Giáo Lý Kinh Thánh

100 Bài Giáo Lý Kinh Thánh

(GIỜ ĐỀN TẠ CỦA GIA ĐÌNH )

Lm. Ph. Hoàng Minh Tuấn biên soạn 
(Lưu hành nội bộ) 1999

 
[BBT] Nhóm Khơi Nguồn xin chân thành cám ơn cha Hoàng Minh Tuấn cho phép đăng bài này. Xin Chúa chúc lành và tuôn đổ muôn hồng ân xuống cho cha và trong sứ vụ của cha.


Bài 34

THƯƠNG LINH HỒN BẢY MỐI (TIẾP)

Sách Kinh Thánh kỳ trước thuật chuyện tiên tri Yô-na bỏ trốn sự vụ rao giảng, hôm nay, Kinh Thánh cho ta nghe chuyện ơn kêu gọi làm tiên tri của Ysaia. Ngược với Yô-na, Ysaia lại tự dâng mình đi rao giảng cho dân

Trích sách Tiên tri Ysaia, ch.6

Tiên tri Ysaia kể rằng : “Lối năm -742, Vua Ô-zy-a chết, tôi đã được thấy Thiên Chúa : Người ngự trên ngai cao thẳm, hoàng bào của Người xòa lấp Đền Thờ. Chung quanh Người có những thần Sê-ra-phim chầu hầu, mỗi vị có sáu cánh : hai cánh phủ mặt (kẻo trông thấy Thiên Chúa uy nghi mà phải chết), hai cánh che mình, hai cánh còn lại để bay (mà đi thi hành lệnh Chúa). Các vị ấy luôn luôn đối đáp nhau mà tung hô Thiên Chúa rằng :

- Chúa là Đấng Thánh, Cực Thánh, ngàn trùng Chí Thánh ! Yavê các cơ binh, trời đất đầy vinh quang Chúa !

Tiếng hoan hô, chúc tụng vang rền, làm các cửa Đền Thờ rung rinh và Đền Thờ nghi ngút khói. Ysaia run sợ than :

- Tôi chết mất, các thiên thần còn không được nhìn mặt Chúa, mà tôi đã được thấy Người. Tôi là kẻ tội lỗi, môi miệng đầy nhơ uế !

Bấy giờ, một vị Sê-ra-phim bay đến, gắp một cục than hồng trên hương án Đền Thờ, đụng vào miệng lưỡi tôi mà nói :

- Lửa hồng này đã tẩy sạch miệng lưỡi ngươi, tất cả tội lỗi của ngươi được tha.

Ngay đó, tiếng Yavê phán :

- Ta sẽ sai ai đi rao giảng lời Ta cho dân chúng ?

Ysaia sốt sắng thưa ngay :

- Này tôi đây ! Người cứ sai tôi !

Yavê phán :

- Vậy ngươi hãy đi rao giảng cho dân! Nhưng hãy nhớ rằng : đừng ngã lòng, dân này cứng đầu, nó nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy, chúng không trở lại mà được tha thứ.

Tôi hỏi :

- Sự ấy sẽ kéo dài đến bao giờ ?

Chúa đáp :

- Cho đến khi các thành chúng bị tàn phá tan hoang, nhà không người ở, đất không ai trồng !...

* Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !

Suy niệm Lời Chúa

Được sai, thế là Ysaia đi rao giảng, ông đã trở thành một tiên tri lớn nhất. Mặc dù dân chúng không nghe, không tin lời giảng, ông cứ thi hành nhiệm vụ, ngày đêm bất kể, vì nhiệt thành lo phần rỗi linh hồn người ta. Nhiều lúc, thấy dân chúng và vua quan cứng lòng, chai đá, ông giận run lên, hét những lời đe dọa nẩy lửa. Lúc khác, thấy trước cảnh tàn phá, thành hoang, đất trống, dân chúng sẽ bị lưu đầy khốn khổ vì tội lỗi mà không ăn năn hối cải, ông đau đớn thốt lên những lời than ai oán xé tâm can.

Chúng ta cũng vậy, mỗi người hãy là một Ysaia khác hiến thân rao giảng Lời Chúa khi có dịp, tùy khả năng và thời giờ của mình, vì vinh quang Thiên Chúa và vì phần ích thiêng liêng cho người đời.

Trong tinh thần ấy, ta đọc tiếp các mối thương linh hồn.

Mối thứ ba : Răn bảo kẻ mê muội :

 

Không kể tội lỗi, ngày nay còn một khốn khó khác là sự trí khôn mê muội, dốt nát về tôn giáo, không thông giáo lý. Còn về mặt lương tâm và luân lý thì mù mờ, không biết cái gì làm được, cái gì không được phép làm : cái này có tội không, cái kia có tội không ? Tỉ dụ : cột buồng trứng có tội không ? Ngừa thai là điều làm được hay bị cấm? Viết lý lịch mà gạch bỏ chữ Thiên Chúa giáo đi có là chối đạo hay chưa ? Mà trong số những người mê muội, họ không phải như thời Ysaia đều cứng cổ cả đâu ! Trái lại, có rất nhiều tâm hồn thiện chí, khao khát biết sự thật. Và có khi các kẻ mê muội lại chính là người nhà của mình : chồng, vợ, con cháu. Nếu không noi gương Ysaia, đến khai sáng cho họ hiểu đường lối của Chúa, thì tội nghiệp biết bao !

Ta hãy nghe chuyện Phúc Âm : Một hôm, Chúa Giêsu bảo : “Hãy đi ra một nơi hiu quạnh, thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút !”. Vậy thày trò lên đò đi đến một nơi vắng vẻ. Ai ngờ, dò biết được các ngài đến đó, dân từ khắp các làng xóm chung quanh rủ nhau kéo đến, và còn đến trước các ngài nữa. Vừa lên khỏi đò, Chúa Giêsu thấy dân chúng đông đảo, thì Ngài chạnh lòng thương xót họ, vì họ như cừu chiên không có người chăn dắt, dạy dỗ. Và dù mỏi mệt, chưa ăn uống gì, Ngài cũng lên tiếng giảng dạy cho họ... dạy mãi đến tận chiều, các tông đồ phải đến xin Chúa cho họ giải tán đi vào thôn xóm xung quanh mua thức ăn. Nhưng hôm ấy, Chúa thương đã làm phép lạ nuôi họ no nê cả phần xác nữa, bằng việc hóa bánh ra nhiều (Mc 6.30-44).

Sau Chúa Giêsu, đến lượt các tông đồ cũng vậy, lo chia tay nhau mỗi người một phương giảng dạy kẻ mê muội, lầm đường lạc lối. Có cái hay là Kinh Thánh thuật lại việc các giáo dân cũng lo việc dạy dỗ ấy. Như ông A-pô-lô, ông vốn là người Do thái nên thông thạo Kinh Thánh ; sau khi học biết đạo Chúa Giêsu, tâm hồn ông nồng nhiệt mến Chúa, thương linh hồn, nên dù là giáo dân, ông cũng tìm mọi dịp giảng dạy về Chúa Giêsu một cách xác đáng. Lại có cặp vợ chồng Pri-ki-la và A-ki-la, cũng là bạn với Thánh Phaolô, nghe tin ông A-pô-lô như vậy, đã đến gặp ông và trình bày cặn kẽ hơn về đạo Chúa Kitô ... (x. Cv 18.24-28). Ôi, chớ gì xứ đạo chúng ta ngày nay mà có được một số người, nam nữ, trẻ già như mấy người ấy, thì thật là phúc lớn !

Mối thứ tư : An ủi kẻ âu lo :

 

Trong cuộc sống náo nhiệt ngày nay, nhìn cảnh quần áo chưng diện đúng mốt thời trang, cảnh ăn uống lu bù quán nọ, tiệm kia, cảnh xô nhau ào ào đi mua sắm đồ đạc, nhất là những nét mặt hớn hở của những người được thùng đồ tiếp tế ngoại quốc gửi về..., tưởng chừng ai cũng sung sướng, hạnh phúc. Có nhìn kỹ hơn mới thấy : con người thường bị bao nỗi buồn bã làm tê liệt tâm hồn. Khỏi cần kể, ai cũng biết các điều ấy rồi ! Đời là bể dâu mà ! Mỗi người mỗi cảnh, mỗi đời mỗi cơn đau : “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay !”.

Thánh Phaolô cũng trải qua nhiều kinh nghiệm đau đớn, nên ông mới nghiệm ra rằng : “Thiên Chúa là Cha đầy thương xót và là Chúa mọi nguồn an ủi. Người an ủi ta trong mọi cơn gian truân, khốn khó, ngõ hầu ta có thể an ủi kẻ khác” (2Cr 1.3-4). Cái hay trong câu ấy của Thánh Phaolô là ông đã được kinh nghiệm thấy trong bao nỗi gian truân, Thiên Chúa đã an ủi và thương xót ông, nên ông mời ta hãy nhớ lại bao lần trong các khốn khó, đau khổ của đời ta, ta đã nếm được sự an ủi và thương xót của Chúa, thì ông nói : đến lượt ta, ta cũng hãy an ủi kẻ đau buồn như vậy. Thiên Chúa an ủi ta, ta đem niềm an ủi ấy biếu cho người khác, và cứ thế, dòng sông tình yêu chảy xuôi mãi xuống, tràn lan ra...

Nhiều lúc, đứng trước đau khổ lớn lao tràn ngập tâm hồn của một người, chẳng hạn một cái chết của người họ yêu thương, ta cảm thấy bất lực, không biết nói lời gì an ủi - lời nói của ta, thấy nó quá nhạt nhẽo... Lúc ấy, chỉ còn cách : im lặng và cầu nguyện cho họ : xin Cha là nguồn an ủi đến an ủi họ thay ta. Có một cách nữa : lấy một vài Lời Chúa hợp tình cảnh mà nâng đỡ tâm hồn họ. Ví dụ, trong cảnh có người thân chết, lấy lời Chúa dạy về cuộc phục sinh, và Chúa đến lại... (x. 1Tx 4.18; 5.9-11,14). Cần nhất đừng để các người âu sầu ở một mình, lẻ loi, cô độc... Khi có thể, ta làm họ nguôi ngoai bằng cách cứ để họ khóc cho đã ; lúc khác, bằng cách xin họ kể cho mình nghe duyên cớ làm họ buồn, hoặc hỏi xem họ có cần ta giúp đỡ gì không, hoặc tích cực nữa là làm họ giải trí, quên đi nỗi sầu, chẳng hạn mời họ đi dạo, đi xem phim hay cho mượn một cuốn truyện hấp dẫn...

Mối thứ năm : Tha kẻ dể ta :

 

Đây là một việc thương xót người ta hơn cả : sự tha thứ ! Thoạt nghe cũng lấy làm lạ, vì ta thường nghe giảng dạy : bổn phận phải tha thứ... ; còn ở đây lại nói là một sự thi thố lòng thương xót. Thực ra, cả hai đều đúng, tùy người ta xét theo góc cạnh nào. Trước hết, nếu xét theo góc cạnh Thiên Chúa, thì phải nói chúng ta có bổn phận phải tha thứ những điều người ta đã xúc phạm đến ta, như chính Chúa đã tha thứ cho ta muôn vàn tội lỗi. Chính Chúa Giêsu đã lấy một dụ ngôn rất hay mà giảng về điều đó : Có một ông quan lớn kia, mắc nợ vua một vạn nén vàng (cỡ 100 triệu đồng). Thật là một món nợ khổng lồ ! Vì không có để trả, nên nhà vua ra lệnh bán ông ta cùng vợ con làm nô lệ và tịch thu gia sản để trả nợ. Ông ta quì xuống, khẩn khoản van xin vua khoan hồng, để ông tìm cách góp nhặt mà trả. Động lòng thương, Vua thả ông ta, lại còn tha bổng cho cả món nợ. Vài ngày sau, đi chơi ngoài phố, ông bắt gặp một bạn đồng nghiệp nợ ông vỏn vẹn có 100 đồng. Ông ta liền túm lấy áo, đè xuống đất quát :

- Nợ đâu, trả đây !

Người bạn năn nỉ xin thư thả sẽ trả hết, nhưng ông ta không chịu, bắt bạn bỏ tù cho đến khi trả xong. Bạn bè thấy ông cư xử tồi tệ quá như vậy, mới kể lại sự việc cho Vua nghe. Đùng đùng nổi giận, Vua sai bắt ông ta vào triều mà mắng :

- Đồ bất nhân bất nghĩa ! Trẫm đã tha bổng cho ngươi, vì ngươi nài xin trẫm. Há ngươi không phải thương xót và tha cho bạn ngươi, như trẫm đã thương và tha cho ngươi sao ?

Phán xong, Vua sai lý hình bỏ tù và hành hạ y cho đến chết. Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu kết luận :

- Cũng vậy, Cha Ta, Đấng ngự trên trời, sẽ xử với các ngươi như thế, nếu mỗi người không thật lòng tha cho anh em mình (Mt 18.23-33).

Lời Chúa dạy quá rõ, chẳng cần thêm gì ; trong thực tế, chỉ xin nhớ điều này : Nếu trong lòng ta còn cưu hờn, tích oán bất kỳ ai, người dưng hay người thân trong gia đình, họ hàng, mà không tha thứ tự đáy lòng, thì ta có đi xưng tội cả chục lần, các tội ta vẫn không được tha, dù cha giải tội có lầm không biết mà cứ ban phép giải tội. Nếu đi rước lễ sau đó, lại thêm phạm sự thánh. Mọi việc đọc kinh, lần hạt, việc lành phúc đức lúc ấy đều vô giá trị trước mặt Chúa. Cách đây ít năm, có bà kia đi dự khóa Thánh Linh, thấy các người khác được đầy các ơn lạ lùng : nào vui mừng, bình an, nào nói tiếng lạ, có người được Chúa ban ơn an ủi đến ngây ngất... ; còn mình thì cứ trơ trơ ra, lạnh như đá, như đồng. Bà buồn quá, đến hỏi Cha hướng dẫn khóa cầu nguyện, thì Cha bảo :

- Cố xét mình xem con còn mắc kẹt gì không ?

Về nhà, bà xét mình : chẳng thấy nợ nần ai, chẳng lấy của ai, không gian tham, không dâm ô, không bỏ lễ... Mãi vài hôm sau, chợt nhớ mình còn giận chồng, hận con... Như một ánh sáng bởi trời soi thấu nỗi u ẩn, bà đầy lòng hối hận, ăn năn, đi xưng tội và quyết lòng tha thứ tất cả. Quả nhiên, hôm sau, lúc giờ cầu nguyện, bà được Chúa ban xuống cho bà muôn hồng ân, bình an, vui mừng và cho bà được ân tứ cầu nguyện bằng tiếng lạ nữa. Ôi ! Kể sao xiết nỗi vui mừng !

Bây giờ, ta đứng góc cạnh người đã xúc phạm tới ta mà xét, thì có thể nói : tha thứ là một việc thi hành lòng thương xót. Vì sao ? Hãy xem lại dụ ngôn trên : Ông quan đã cư xử ra sao với người bạn ? Thưa: ông bỏ tù bạn ! Thế nếu ông tha thứ thì ông sẽ làm gì ? Thưa : sẽ thả bạn ra và tha bổng cho bạn. Vậy đó, chẳng phải là thi hành lòng thương xót sao ? Phần ta, tha thứ cho người khác, tức cũng như thả họ ra khỏi tù vậy.

Mối thứ sáu : Nhịn kẻ mất lòng ta :

 

Mối này hơi khác với mối trước. Không còn là chuyện tha thứ, song là nhịn nhục, nhẫn nại, chịu đựng những cử chỉ, những thái độ, tính nết, lời ăn, tiếng nói của kẻ khác làm ta khó chịu, đau đớn, khổ sở... Tha thứ thì chỉ đôi khi xảy ra, chứ nhịn nhục thì xảy ra hàng ngày. Vì đã sống chung thì có đụng chạm. Mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi ý riêng, quyền lợi riêng, sở thích riêng, nên dễ va chạm, dễ làm mất lòng nhau. Thánh Phaolô dạy : “Hãy vác gánh nặng của nhau, và như thế, anh em sẽ giữ trọn luật của Chúa Kitô” (Gc 6.2) - “Hãy chịu đựng lẫn nhau trong lòng mến, với hết lòng khiêm nhường và hiền từ... Hãy hăm hở duy trì sự hiệp nhất của Thần Khí, trong sự hòa thuận” (Ep 4.2-3) - “Ai có lòng bác ái thật thì sẽ chịu đựng được mọi sự, bao dung mọi sự, kiên nhẫn trong mọi sự” (1Cr 13.7). Hãy noi gương Thiên Chúa, vì Kinh Thánh nói : “Bất chấp các tội phạm trước kia của loài người (kể từ tội của Ađam, suốt bao nghìn năm), Thiên Chúa vẫn cầm mình nhẫn nại... cho đến thời Người sai Đức Giêsu đến để cứu kẻ nào có lòng tin” (Rm 3.26). Đó, chính Thiên Chúa cũng phải cầm mình nhẫn nại, vì Người cũng đau buồn vì tội lỗi loài người lắm chứ ! Kinh Thánh cho biết : “Yavê thấy sự dữ của loài người đã ra nhiều..., suốt ngày họ chỉ mưu tính sự độc dữ. Và Yavê đã phải đau phiền trong lòng...” (Kn 6.5-6). Thế mà “Ngài đã cầm mình lại, khoan dung, chịu đựng ta” (Rm 9.22), còn ta, Kinh Thánh ví như “cái bình thịnh nộ, sẵn chờ hư đi”, nghĩa là ta ví như cái bình chất đầy tội lỗi bên trong, tức là chứa đầy thịnh nộ của Thiên Chúa, chờ ngày nổ tung tiêu diệt ta hư đi đời đời. Thế mà, Thiên Chúa đã nhẫn nhịn, chờ ta ăn năn hối cải để được cứu. Đến lượt ta cũng phải nhẫn nhịn chịu đựng anh chị em ta như thế.

Kể ra tha thứ hoặc nhịn nhục rất khó. Tại sao ? Tại ta nhìn vào ta nhiều quá, ta thấy ta bị xúc phạm, quyền lợi ta bị thiệt thòi, hoặc vì ta nhìn chằm chằm vào các lỗi lầm nơi anh chị em khác, càng thấy sai trái, càng thấy thái độ, càng nghĩ đến lời ăn, tiếng nói xúc phạm của họ, ta càng bừng bừng tức giận... Nhưng nếu ngược lại, ta nhìn lên Thánh giá, Chúa đang chịu đóng đinh giữa vô vàn khổ đau, Ngài đã thốt lên lời van : “Xin Cha tha thứ vì họ lầm chẳng biết”..., ắt ta sẽ múc được sức mạnh mà nhịn nhục, chịu đựng và tha thứ cho người đời.

Tích truyện

Người ta kể chuyện nhạc sĩ Bét-tô-fen, một hôm đi ngang qua nhà kia, từ trong nhà vẳng ra tiếng nức nở nghe vô cùng não nuột, thương tâm. Dừng lại nghe một lát, tâm can ông bùi ngùi xúc động. Nhạc sĩ không cầm lòng nổi, ông nhè nhẹ mở cửa bước vào. Một cảnh tượng buồn thảm hiện ra trước mắt : một bà mẹ trẻ đang khóc thương trước thi hài đứa con trai độc nhất của bà, đang còn phủ khăn liệm. Nỗi đau thương bi lụy ấy, ai có lời nào an ủi nổi. Chợt nhạc sĩ thấy loé ra trong đầu một sáng kiến. Ông êm ả đến cạnh chiếc đàn organ (phong cầm), nhẹ nhàng chơi một bản êm đềm, thánh thót : ông để tất cả tâm tình cảm thông vào các phím đàn, ông muốn nhờ đàn diễn tả tất cả những lời an ủi, mà lời nói không sao tả được... Tiếng nhạc khi trầm, khi bổng, êm ái, du dương... Và cứ thế, người ta thấy bà mẹ dần dần vơi buồn, bớt khóc than và khô giọt lệ, đôi mắt bà mẹ nhìn lên trời với tất cả lòng biết ơn thầm lặng... Rồi nhạc sĩ đậy nắp đàn, êm ả rút lui, không một tiếng động, để lại trong nhà một bà mẹ, tim bừng sáng niềm trông cậy..

-----oOo-----