BÀ LÀ AI ?
CHỨNG TỪ TRUNG THỰC VÀ ĐẦY XÚC ĐỘNG
CỦA MỘT KÝ GIẢ TIN LÀNH VỀ ĐỨC MẸ
Chuyển ngữ từ cuốn “MEDJUGORJE, THE MESSAGE” của Wayne Weible
Paraclete Press, Orleans, Massachussets, 22nd Printing, 1996.
[BBT] Mạng lưới Khơi Nguồn (Khoi-Nguon.com) xin chân thành cám ơn Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR đã dịch ra tiếng Việt và cho phép chúng con được đăng lên mạng cho mọi người được hưởng ân huệ của Chúa. Xin Chúa trả công bội hậu cho cha.
“Hãy viết về Mễ Du, và nếu con chấp nhận, việc này sẽ trở nên sứ mạng của đời con...”
Chương 5
"Hãy Viết Về Mễ Du ..."
Tôi giật mình thức dậy, cổ tê cứng do tư thế nằm bất cẩn của tôi trên đi văng. Hé mắt nhìn đồng hồ tay, tôi thấy đã gần 6 giờ sáng. Lúc lắc cái đầu, tôi đi vào phòng ngủ sửa soạn đi làm.
Terri dậy sau vài phút, chuẩn bị bữa sáng và đánh thức các con. Tôi đi vào bếp và loay hoay giúp nàng.
- “Này Terri, anh làm gì bây giờ với chuyện đó?”
Nàng nhận thấy là sự việc xảy ra tối hôm qua đến giờ chẳng có gì thay đổi: tôi vẫn khăng khăng là đã nhận được một sứ điệp từ Đức Trinh Nữ Maria. Nàng thở dài nói: “Thôi được, anh cứ đi mà viết về cái đó, rồi chấm dứt nó cho xong đi!”
Tôi chắc chắn đó là việc tôi phải làm, nhưng tôi cần có lời xác nhận của nàng. Và tôi cũng biết là không bao giờ tôi có thể “chấm dứt” cho xong với việc ấy được.
Đến nơi làm việc, tôi nhấp một tách cà phê và bảo Denease, nhân viên tiếp tân, rằng tôi sẽ không trả lời bất cứ cú điện thoại nào, tôi không muốn bị quấy rầy vì bất cứ việc gì. Khóa cửa phòng lại, duyệt qua những điểm đã ghi từ quyển sách và từ cuộn băng vidéo, tôi nhét lẹ một tờ giấy trắng vào máy đánh chữ.
Hai tiếng đồng hồ sau, tôi vẫn nhìn chằm chằm vào tờ giấy ấy. Không phải là tôi đang cuống cuồng lên, vì còn rất nhiều thời gian - hơn hai ngày nữa để viết, nếu cần. Vấn đề không ở chỗ viết cái gì, mà là ngược lại, có quá nhiều điều để viết. Tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: tôi không nên viết và in ra cho công chúng đọc rằng tôi đã nhận một sứ điệp riêng từ Đức Trinh Nữ Maria. Bài viết phải hết sức khách quan, nếu không, dân chúng sẽ nghĩ là tôi đã đi quá trớn. Càng xác tín mình đã lãnh được sứ điệp khó tin đó, tôi càng dè dặt không muốn liều mất uy tín nhà báo của tôi.
Lật lại quyển sách của Linh mục Faricy, tôi bắt đầu ghi thêm nhiều điểm khác, không thể nào viết hết bằng ấy thứ vào trong một bài báo. Một tiếng đồng hồ nữa qua đi, tôi cố gắng khởi đầu bằng cách tả cảnh ngôi làng nhỏ bé có tên Mễ Du ấy. Tôi giật trang giấy ra khỏi máy chữ, vo tròn nó lại và ném vào sọt rác. Nó rơi ra ngoài.
Tôi thử đánh máy lần nữa: “Các bạn có tin vào phép lạ không?” Sau khi nhìn vào tờ giấy trong giây lát, tôi giật mạnh nó ra và vứt vào sọt rác. Nó cũng lại rơi ra ngoài. Bây giờ, tôi bắt đầu phát hoảng. Tôi đã từng kinh nghiệm cái “bí” của nhà văn, nhưng chưa bao giờ như lần này. Tôi ngồi đó, chết lặng đi vì không còn biết viết gì lên giấy. Chính lúc đó, một lần nữa, tôi cảm thấy vang lên trong tôi một sứ điệp. Lần này là một lời khiển trách: “Hãy cầu nguyện thêm và học hỏi thêm!”
Tim tôi nhảy vọt lên, nhưng lần này, cú sốc không đến nỗi mạnh lắm. Thay vào đó là một sự chấp nhận bình thản, dù đôi chút ngập ngừng, được nhẹ nhàng hướng dẫn qua những bước sơ khởi buổi đầu, để thực hiện sứ mạng viết về các biến cố Mễ Du. Chắc chắn sẽ phải viết không chỉ một bài mà nhiều hơn, mới có thể kể toàn bộ câu chuyện. Trong khi đó, rõ ràng là không kịp có bài đầu tiên cho số báo tuần tới. Đơn giản chỉ vì tôi chưa có đủ thời giờ.
Tôi rời văn phòng và bước vào khu vực in ấn, ở đây, viên quản lý nhìn tôi như đang chờ đợi một cái gì. “Này, Smitty!” tôi nói, “Tôi không có bài nào cho tuần sau đâu nhé! Anh nên cho bài khác vào chỗ đó đi.”
Anh ta định phản đối, nhưng tôi đã ngắt lời: “Đúng ra có thể tôi sẽ không có bài nào cả trong nhiều tuần tới.” Rồi tôi bỏ đi trước khi anh có ý kiến.
Biết rằng mình không thể tập trung vào một vấn đề nào khác, tôi quay về văn phòng và điện thoại cho Mary Jeffcoat, hi vọng cô ấy biết nơi nào tôi có thể lấy thông tin về sự kiện hiện ra và câu chuyện Mễ Du. Cô cho tôi cái tên Jim Stoffel, đang sống tại Bắc Myrtle Beach, và thật là ngẫu nhiên, anh sẽ cùng với vợ là Rosie đến Mễ Du vào ngày 1 tháng 11 tới đây. Mary nói thêm: “Jim có một quyển sách khác về Mễ Du, tôi có thể mượn cho anh nếu anh muốn xem.”
- “Cám ơn Mary nhiều, tôi cần nó lắm.”
Tôi bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút - và với tấm lòng phục tùng mệnh lệnh tôi vừa tiếp nhận lúc nãy, tôi cúi đầu xuống và cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con thực tình không biết điều gì đang xảy đến cho con, hoặc tại sao, nhưng con sẽ cố...”
Tôi cảm thấy cầu nguyện như thế có hơi gượng gạo, nhưng lại rất tốt. Tôi quyết tâm hoàn thành điều đã đòi hỏi ở tôi, và nếu có cần vài tuần lễ để nghiên cứu tìm hiểu, thì tôi cũng sẽ làm.
Tối hôm đó, Mary mang đến quyển sách mới, tôi liền đọc ngay. Tác giả Joseph Pelletier là một linh mục Công giáo, đã viết nhiều sách về việc hiện ra tại Fatima. Ngài kể chi tiết về những biến cố nguyên thủy tại Mễ Du, theo quan điểm của một người đã từng điều nghiên các vụ hiện ra khác của Đức Trinh Nữ Maria. Tôi đọc mê mải và chỉ trong hai ngày, tôi đã đọc xong.
Bây giờ, để biết về bối cảnh câu chuyện, tôi cần tìm thêm nhiều tư liệu về những cuộc hiện ra nói chung. Tôi kiếm ở trong sổ niên giám điện thoại để tìm một hiệu sách Công giáo, và đã rất ngạc nhiên vì không thấy có một hiệu sách nào trong khắp bang Nam Carolina. Hiệu sách Công giáo gần nhất là ở Charlotte, Bắc Carolina, cách đây hơn 300 cây số. Tình cờ làm sao, mấy ngày sau đó, tôi lại có việc phải đi Charlotte... Ở đấy, tại một tiệm sách, tôi tìm được một cuốn lịch sử về các vụ hiện ra của Đức Maria có từ thế kỷ 16. Cũng thế, tôi rất hài lòng tìm ra được một sách khác về Mễ Du, do cha Svetozar Kraljevic, một linh mục Croatia, đã từng liên quan trực tiếp đến sự kiện hiện ra ở Mễ Du.
Tôi bắt đầu đọc lịch sử các lần hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria, và quá đỗi ngạc nhiên khi biết được các vụ đó đã xảy ra trên 1900 năm, tại nhiều nơi mà tôi đã được nghe, nhưng không bao giờ để ý đến. Tại Guadalupe, Mễ Tây Cơ, năm 1531, Bà đã hiện ra với một người da đỏ bộ lạc Aztec, 51 tuổi, tên Juan Diego; năm 1858, Bà đã hiện đến với Bênađêta, một thiếu nữ Pháp, tại Lộ Đức; rồi vào đầu thế kỷ 20 này, cho ba em tại Fatima, nước Bồ Đào Nha. Rồi còn nhiều lần khác: tại Knock, nước Ái Nhĩ Lan, và Garabandal, nước Tây Ban Nha...
Tôi đặt sách xuống, lắc đầu chép miệng. Vậy ra, điều xảy ra tại Mễ Du không có gì là mới lạ. Nhưng tôi có ghi rõ (trong sổ tay): chưa bao giờ Bà lại hiện ra một cách liên tục, lâu dài và cho nhiều trẻ thị nhân cùng một lúc như thế.
Sách của linh mục Svetozar Kraljevic, cho đến nay, là quyển sách hay nhất về các vụ hiện ra tại Mễ Du, hay hơn tất cả các sách khác (chỉ kể đi kể lại những chi tiết của những ngày đầu) ở chỗ ông còn thêm vào các chi tiết ấy một vẻ thiêng liêng, nó diễn tả rất sát với những tâm tình tôi đã có, khi khám phá ra phép lạ này. Lời văn của ông bình dị và trực tiếp, khiến bạn phải dừng lại để suy nghĩ và hình dung đến những gì đang xảy ra ở ngôi làng nhỏ bé ấy. Chỉ có một đoạn ngắn ở bìa lưng cuốn sách giới thiệu linh mục dòng Phanxicô đó, vậy mà ngay lập tức, tôi đã cảm thấy gắn bó với ông.
Cuối cùng, tôi thấy tôi đã sẵn sàng để viết về Mễ Du. Thời gian nghiên cứu chiếm gần hết tháng 11, nhưng không phải thời gian uổng phí. Do tính cách sâu rộng của câu chuyện, tôi quyết định viết luôn một loạt bốn bài, và cho ra mắt độc giả trong suốt tháng 12, với hi vọng kết thúc đúng vào lễ Giáng Sinh.
Tôi vội vàng trở lại văn phòng, dặn Denease lần nữa là đừng để ai quấy rầy tôi. Vừa đút tờ giấy vào máy đánh chữ, tôi thấy thôi thúc muốn cầu nguyện: “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Ngài về việc này”, tôi thầm thĩ: “Xin Chúa giúp đỡ con trong những gì con phải làm.”
Ý tưởng đến với tôi khi tôi cần, và mấy ngón tay lướt bay trên bàn phím của máy đánh chữ khi tôi khởi sự bài báo thứ nhất:
Ngày 4-12-1985
Trong vòng bốn tuần lễ tới của tháng 12, tôi sẽ cố gắng kể cho các bạn, một cách trung thực nhất, về một biến cố được coi là đang xảy ra tại một ngôi làng nhỏ bé, giữa vùng đồi núi thuộc miền Trung nước Nam Tư. Đó là một biến cố tôn giáo siêu nhiên, nên chắc chắn sẽ bị nhiều người nhìn nó với con mắt hoài nghi. Quả thật, vì đây lại là vùng Công giáo toàn tòng, nên càng bị nghi ngờ hơn nữa.
Đã hẳn, nếu chính cá nhân tôi không tin rằng có một việc quan trọng đang xảy ra ở nơi đó, thì tôi sẽ không bao giờ viết về nó. Tuy nhiên, xin nói ngay từ đầu: Tôi không có ý định tuyên truyền để người ta theo đạo Công giáo, vì chính tôi không phải là người Công giáo; tôi cũng không định tuyên truyền để người ta tin vào Thiên Chúa. Hãy để cho mỗi người tự quyết định về nhu cầu của mình dựa trên các thông tin Phần tôi, tôi chỉ muốn tặng các thông tin này cho các bạn nhân dịp Noel thôi.
Hình chụp năm đầu tiên Đức Maria hiện ra với 6 thiếu niên nam nữ, mà em nhỏ nhất mới lên 10 tuổi. Trên hình, có thể thấy em lọt thỏm giữa mấy em khác, chỉ nhô cái mặt lên.
Từ bốn năm rưỡi nay, Mễ Du, một ngôi làng nhỏ bé tại vùng đồi núi miền Trung nước Nam Tư, đã lôi kéo sự chú ý của thế giới như là nơi mà Thân Mẫu Chúa Giêsu, Đức Trinh Nữ Maria, được cho là đã hiện ra mỗi ngày cho sáu thiếu niên nam nữ. Khi tôi viết bài này, những cuộc hiện ra được báo là vẫn tiếp diễn hằng ngày. Mặc cho những nỗ lực từ phía nhà cầm quyền, nhằm gây hoang mang trong dân chúng về tính xác thực của sự việc này và cản trở người ta tới nơi hiện ra, hằng triệu người đã và đang đổ xô đến đó, để được tai nghe mắt thấy điều đang xảy ra. Nam Tư dĩ nhiên là một nước Xã hội Chủ nghĩa, không công nhận một tôn giáo nào, cũng không tin sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng dân chúng lại đa số là Công giáo, nên Nhà nước bất đắc dĩ đành cho phép họ làm việc thờ phượng bên trong các nhà thờ mà thôi.
Theo chứng của mấy trẻ, gọi là thị nhân, sứ điệp của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc thì đơn giản và rõ ràng: Người hiện đến với các thị nhân, để nói cho thế giới hãy mau kíp quay về với đường lối Thiên Chúa, hoán cải lối sống của mình mà giao hòa với Thiên Chúa và với đồng loại. Bà sẽ trao cho mỗi thị nhân mười sứ điệp – hoặc “bí mật” - về những gì sẽ xảy đến trên thế giới một ngày rất gần. Những sứ điệp (hay bí mật) đó sẽ là những dấu trông thấy được, cho nhân loại biết là sự kiện hiện ra tại Mễ Du thì có thật, và việc trở lại với Thiên Chúa phải được bắt đầu từ bây giờ. Khi Bà thôi hiện ra với các thị nhân - lúc nào, thì chỉ có sáu em đó biết thôi - sẽ có một Dấu lạ trường kỳ để lại tại Mễ Du. Dấu lạ ấy sẽ khởi phát nhiều việc chữa lành bệnh tật và nhiều cuộc hoán cải trong thời gian ngắn ngủi còn lại, trước khi các bí mật được thực hiện .
Theo lời các em thị nhân, con đường dẫn đến hối cải là cầu nguyện và ăn chay. Từ những lần hiện ra đầu tiên ngày 24-6-1981, các em thị nhân dành 4 giờ mỗi ngày để cầu nguyện, hoặc có khi hơn; các em ăn chay ba lần mỗi tuần với bánh mì và nước lã.
Cho những ai có tính hoài nghi trước một sự kiện như thế, khoảng cách về tuổi của sáu thiếu niên tại Mễ Du là một điều đáng chú ý. Lúc ban đầu, em nhỏ nhất chỉ mới có 10 tuổi, một em khác 15 tuổi, ba em 16 tuổi và em lớn nhất 17 tuổi. Bốn gái và hai trai.
Các thiếu niên được Đức Trinh Nữ Maria hiện ra này là ai? Chúng là những trẻ bình thường, chỉ khác nhau (như tôi đã nói) ở tuổi tác và cá tính. Tất cả các em đều có trí thông minh trung bình, chỉ trừ Mirjana Dragicevic, em thứ ba trong các em có tuổi lớn nhất, thì đang học Đại học Sarajevo, nơi gia đình em hiện đang sống.
Marija Pavlovic, một trong mấy đứa lớn nhất trong nhóm, có chiều cao trung bình, thân hình mảnh mai, là thị nhân điềm tĩnh nhất và có đời sống thiêng liêng sâu sắc nhất. Em dự định trở thành nữ tu.
Vicka Ivankovic, em lớn tuổi hơn cả, cũng dự định đi tu. Em có thân thể khỏe mạnh, gương mặt rất biểu cảm. Em là người thu hút nhất trong nhóm, nhưng không hề có vẻ gì “làm bộ” cả.
Ivanka Ivankovic, trẻ nhất trong bốn cô gái, là thiếu nữ duy nhất trong nhóm có dự định kết hôn. Em xinh xắn nhất và có dáng dấp gái choai choai thời đại, nhưng đạo đức lại rất vững vàng.
Ivan Dragicevic, lớn nhất trong hai cậu con trai, ước ao làm linh mục. Cậu có tính nhút nhát, thích kín đáo nhất trong nhóm và luôn có vẻ nghiêm trang, trầm ngâm.
Thị nhân trẻ tuổi nhất, sinh động nhất, nay đã 13 tuổi, là Jacov Colo. Khi các cuộc hiện ra bắt đầu, em mới có 10 tuổi. Cũng như các thị nhân khác, em hoàn toàn bình thường.
Sự hiện diện của bé trai (Jacov) hiếu động này trong nhóm thị nhân, nói lên sự xác thực của các cuộc hiện ra. Cứ so sánh em này với con hay em trai ta cùng tuổi đó: thật rất khó lòng mà nó chịu đi nhà thờ cầu nguyện từ hai đến ba giờ mỗi ngày, mùa hè cũng như mùa đông, trời tốt cũng như trời xấu, đằng đẵng suốt bốn năm trời, chỉ để làm cho người ta tin rằng nó đã thấy một sự hiện ra thánh thiêng từ Thiên Chúa.
Chỉ cần lấy lứa tuổi và tính nết của các thị nhân cũng như tính cách liên tục, bền bỉ của các lần hiện ra cho các em, thì cũng đủ làm bằng chứng về một sự gì đó hết sức phi thường đang diễn ra.
Có quá nhiều điều để nói về Mễ Du. Có lẽ một trích đoạn dưới đây từ một báo cáo trình lên Đức Giáo Chủ, do yêu cầu của Đức Maria (theo lời các em), sẽ tóm tắt phần này tốt nhất. Một linh mục Công giáo tên Tomislav Vlasic, người đã liên quan đến sự kiện hiện ra từ những ngày đầu, được Mirjana yêu cầu làm việc này.
Sau đây là một đoạn trong báo cáo ấy của linh mục:
Theo lời Mirjana, trong lần hiện ra ngày 25-12-1982, Đức Mẹ trao cho em bí mật thứ mười, cũng là bí mật cuối cùng, và cho em biết ngày tháng sẽ thể hiện các bí mật đó. Đến lúc này thì Đức Trinh Nữ tiết lộ cho Mirjana nhiều khía cạnh của tương lai hơn, so với các em thị nhân kia cho đến bây giờ. Vì lý do đó, con xin tường trình những gì Mirjana đã nói với con, trong lần nói chuyện hôm 5-11-1983. Con nói tóm tắt những điều chính yếu em đã nói mà không trích dẫn nguyên văn.
Mirjana nói: “Trước khi Dấu chỉ hữu hình được ban cho nhân loại, sẽ có ba cảnh báo cho thế giới. Những cảnh báo này sẽ xảy đến trên mặt địa cầu, Mirjana sẽ làm chứng về chúng. Ba ngày trước khi xảy ra một trong những cảnh báo đó, em sẽ báo cho một linh mục do em chọn. Chứng tá của Mirjana sẽ là một xác nhận sự kiện hiện ra là thật và là sự thúc giục người ta ăn năn hối cải. Sau ba lần cảnh báo này, một Dấu chỉ hữu hình sẽ được ban cho toàn nhân loại tại địa điểm hiện ra ở Mễ Du. Dấu chỉ đó sẽ được ban ra, như một xác minh về sự kiện hiện ra và như một lời kêu gọi loài người trở lại với đức tin.
Bí mật thứ chín và thứ mười gồm những chuyện nghiêm trọng. Đó là những trừng phạt tội lỗi của thế giới. Trừng phạt không thể nào tránh khỏi, bởi chúng ta không trông mong có sự hối cải của cả thế giới. Hình phạt có thể được giảm bớt nhờ lời cầu nguyện và đền tội - nhưng không thể bỏ hẳn. Mirjana nói: Có một tai họa đe dọa thế giới theo bí mật bảy, đã được giảm bớt nhờ cầu nguyện và ăn chay. Bởi vậy, Đức Trinh Nữ liên tiếp kêu gọi cầu nguyện và chay tịnh: “Các con đã quên là với cầu nguyện và chay tịnh, các con có thể chặn đứng chiến tranh và làm đình chỉ các định luật thiên nhiên”.
Sau cảnh báo đầu tiên, các cảnh báo khác sẽ xảy ra tiếp theo trong một thời gian ngắn, đủ để người ta có thời giờ mà hối cải.
Đây là thời gian ân sủng và hối cải. Sau Dấu chỉ hữu hình, những người còn sống sẽ chỉ có ít thời gian để ăn năn hối cải. Chính vì lý do đó mà Đức Trinh Nữ Diễm Phúc kêu gọi loài người hãy cấp bách ăn năn hối cải và làm hòa với Thiên Chúa.
Lời kêu gọi cầu nguyện và đền tội có mục đích đẩy lui cái ác và chiến tranh, và nhất là để cứu các linh hồn.
Theo lời Mirjana, chúng ta đang gần kề những biến cố đã được Đức Trinh Nữ tiên báo. Vì vậy, Mirjana nói với nhân loại: “Hãy mau mắn ăn năn hối cải càng sớm càng tốt! Hãy mở lòng ra với Thiên Chúa!”
Cha Vlasic cho thêm một số thông tin liên quan đến các bí mật, nhân một cuộc phỏng vấn thu băng vào tháng 8-1983: “Các thị nhân nói rằng: một khi các bí mật mà Đức Mẹ đã ủy thác cho các em được thực hiện, cuộc sống trên thế giới sẽ thay đổi. Sau đó, nhân loại sẽ tin như thời xưa. Cái gì thay đổi và thay đổi như thế nào, chúng ta sẽ không biết được cho đến khi các bí mật được tiết lộ.”
Những dòng chữ ngắn ngủi trên này bao hàm rất nhiều điều về các biến cố phi thường tại Mễ Du. Còn việc những sự đó có xác thực hay không, đó là tùy mỗi người chúng ta quyết định lấy.
Tôi ngả đầu ra phía sau, rồi duỗi người ra. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua, cũng bằng với thời gian như khi tôi ngồi thẫn thờ vài tuần trước đây, đăm đăm nhìn vào tờ giấy trắng nguyên si, không viết được chữ nào. Lần này, hình như không lâu bằng. Tôi không thể nhớ mình đã từng bao giờ viết được cái gì một cách dễ dàng như thế.
Cầm xấp giấy đi vào khu in ấn, tôi báo cho Smitty biết bài này và ba bài sau sẽ đăng dài hơn bình thường. Thế rồi, tôi đóng cửa văn phòng và trở về nhà.
Terri dậy sau vài phút, chuẩn bị bữa sáng và đánh thức các con. Tôi đi vào bếp và loay hoay giúp nàng.
- “Này Terri, anh làm gì bây giờ với chuyện đó?”
Nàng nhận thấy là sự việc xảy ra tối hôm qua đến giờ chẳng có gì thay đổi: tôi vẫn khăng khăng là đã nhận được một sứ điệp từ Đức Trinh Nữ Maria. Nàng thở dài nói: “Thôi được, anh cứ đi mà viết về cái đó, rồi chấm dứt nó cho xong đi!”
Tôi chắc chắn đó là việc tôi phải làm, nhưng tôi cần có lời xác nhận của nàng. Và tôi cũng biết là không bao giờ tôi có thể “chấm dứt” cho xong với việc ấy được.
Đến nơi làm việc, tôi nhấp một tách cà phê và bảo Denease, nhân viên tiếp tân, rằng tôi sẽ không trả lời bất cứ cú điện thoại nào, tôi không muốn bị quấy rầy vì bất cứ việc gì. Khóa cửa phòng lại, duyệt qua những điểm đã ghi từ quyển sách và từ cuộn băng vidéo, tôi nhét lẹ một tờ giấy trắng vào máy đánh chữ.
Hai tiếng đồng hồ sau, tôi vẫn nhìn chằm chằm vào tờ giấy ấy. Không phải là tôi đang cuống cuồng lên, vì còn rất nhiều thời gian - hơn hai ngày nữa để viết, nếu cần. Vấn đề không ở chỗ viết cái gì, mà là ngược lại, có quá nhiều điều để viết. Tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: tôi không nên viết và in ra cho công chúng đọc rằng tôi đã nhận một sứ điệp riêng từ Đức Trinh Nữ Maria. Bài viết phải hết sức khách quan, nếu không, dân chúng sẽ nghĩ là tôi đã đi quá trớn. Càng xác tín mình đã lãnh được sứ điệp khó tin đó, tôi càng dè dặt không muốn liều mất uy tín nhà báo của tôi.
Lật lại quyển sách của Linh mục Faricy, tôi bắt đầu ghi thêm nhiều điểm khác, không thể nào viết hết bằng ấy thứ vào trong một bài báo. Một tiếng đồng hồ nữa qua đi, tôi cố gắng khởi đầu bằng cách tả cảnh ngôi làng nhỏ bé có tên Mễ Du ấy. Tôi giật trang giấy ra khỏi máy chữ, vo tròn nó lại và ném vào sọt rác. Nó rơi ra ngoài.
Tôi thử đánh máy lần nữa: “Các bạn có tin vào phép lạ không?” Sau khi nhìn vào tờ giấy trong giây lát, tôi giật mạnh nó ra và vứt vào sọt rác. Nó cũng lại rơi ra ngoài. Bây giờ, tôi bắt đầu phát hoảng. Tôi đã từng kinh nghiệm cái “bí” của nhà văn, nhưng chưa bao giờ như lần này. Tôi ngồi đó, chết lặng đi vì không còn biết viết gì lên giấy. Chính lúc đó, một lần nữa, tôi cảm thấy vang lên trong tôi một sứ điệp. Lần này là một lời khiển trách: “Hãy cầu nguyện thêm và học hỏi thêm!”
Tim tôi nhảy vọt lên, nhưng lần này, cú sốc không đến nỗi mạnh lắm. Thay vào đó là một sự chấp nhận bình thản, dù đôi chút ngập ngừng, được nhẹ nhàng hướng dẫn qua những bước sơ khởi buổi đầu, để thực hiện sứ mạng viết về các biến cố Mễ Du. Chắc chắn sẽ phải viết không chỉ một bài mà nhiều hơn, mới có thể kể toàn bộ câu chuyện. Trong khi đó, rõ ràng là không kịp có bài đầu tiên cho số báo tuần tới. Đơn giản chỉ vì tôi chưa có đủ thời giờ.
Tôi rời văn phòng và bước vào khu vực in ấn, ở đây, viên quản lý nhìn tôi như đang chờ đợi một cái gì. “Này, Smitty!” tôi nói, “Tôi không có bài nào cho tuần sau đâu nhé! Anh nên cho bài khác vào chỗ đó đi.”
Anh ta định phản đối, nhưng tôi đã ngắt lời: “Đúng ra có thể tôi sẽ không có bài nào cả trong nhiều tuần tới.” Rồi tôi bỏ đi trước khi anh có ý kiến.
Biết rằng mình không thể tập trung vào một vấn đề nào khác, tôi quay về văn phòng và điện thoại cho Mary Jeffcoat, hi vọng cô ấy biết nơi nào tôi có thể lấy thông tin về sự kiện hiện ra và câu chuyện Mễ Du. Cô cho tôi cái tên Jim Stoffel, đang sống tại Bắc Myrtle Beach, và thật là ngẫu nhiên, anh sẽ cùng với vợ là Rosie đến Mễ Du vào ngày 1 tháng 11 tới đây. Mary nói thêm: “Jim có một quyển sách khác về Mễ Du, tôi có thể mượn cho anh nếu anh muốn xem.”
- “Cám ơn Mary nhiều, tôi cần nó lắm.”
Tôi bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút - và với tấm lòng phục tùng mệnh lệnh tôi vừa tiếp nhận lúc nãy, tôi cúi đầu xuống và cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con thực tình không biết điều gì đang xảy đến cho con, hoặc tại sao, nhưng con sẽ cố...”
Tôi cảm thấy cầu nguyện như thế có hơi gượng gạo, nhưng lại rất tốt. Tôi quyết tâm hoàn thành điều đã đòi hỏi ở tôi, và nếu có cần vài tuần lễ để nghiên cứu tìm hiểu, thì tôi cũng sẽ làm.
Tối hôm đó, Mary mang đến quyển sách mới, tôi liền đọc ngay. Tác giả Joseph Pelletier là một linh mục Công giáo, đã viết nhiều sách về việc hiện ra tại Fatima. Ngài kể chi tiết về những biến cố nguyên thủy tại Mễ Du, theo quan điểm của một người đã từng điều nghiên các vụ hiện ra khác của Đức Trinh Nữ Maria. Tôi đọc mê mải và chỉ trong hai ngày, tôi đã đọc xong.
Bây giờ, để biết về bối cảnh câu chuyện, tôi cần tìm thêm nhiều tư liệu về những cuộc hiện ra nói chung. Tôi kiếm ở trong sổ niên giám điện thoại để tìm một hiệu sách Công giáo, và đã rất ngạc nhiên vì không thấy có một hiệu sách nào trong khắp bang Nam Carolina. Hiệu sách Công giáo gần nhất là ở Charlotte, Bắc Carolina, cách đây hơn 300 cây số. Tình cờ làm sao, mấy ngày sau đó, tôi lại có việc phải đi Charlotte... Ở đấy, tại một tiệm sách, tôi tìm được một cuốn lịch sử về các vụ hiện ra của Đức Maria có từ thế kỷ 16. Cũng thế, tôi rất hài lòng tìm ra được một sách khác về Mễ Du, do cha Svetozar Kraljevic, một linh mục Croatia, đã từng liên quan trực tiếp đến sự kiện hiện ra ở Mễ Du.
Tôi bắt đầu đọc lịch sử các lần hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria, và quá đỗi ngạc nhiên khi biết được các vụ đó đã xảy ra trên 1900 năm, tại nhiều nơi mà tôi đã được nghe, nhưng không bao giờ để ý đến. Tại Guadalupe, Mễ Tây Cơ, năm 1531, Bà đã hiện ra với một người da đỏ bộ lạc Aztec, 51 tuổi, tên Juan Diego; năm 1858, Bà đã hiện đến với Bênađêta, một thiếu nữ Pháp, tại Lộ Đức; rồi vào đầu thế kỷ 20 này, cho ba em tại Fatima, nước Bồ Đào Nha. Rồi còn nhiều lần khác: tại Knock, nước Ái Nhĩ Lan, và Garabandal, nước Tây Ban Nha...
Tôi đặt sách xuống, lắc đầu chép miệng. Vậy ra, điều xảy ra tại Mễ Du không có gì là mới lạ. Nhưng tôi có ghi rõ (trong sổ tay): chưa bao giờ Bà lại hiện ra một cách liên tục, lâu dài và cho nhiều trẻ thị nhân cùng một lúc như thế.
Sách của linh mục Svetozar Kraljevic, cho đến nay, là quyển sách hay nhất về các vụ hiện ra tại Mễ Du, hay hơn tất cả các sách khác (chỉ kể đi kể lại những chi tiết của những ngày đầu) ở chỗ ông còn thêm vào các chi tiết ấy một vẻ thiêng liêng, nó diễn tả rất sát với những tâm tình tôi đã có, khi khám phá ra phép lạ này. Lời văn của ông bình dị và trực tiếp, khiến bạn phải dừng lại để suy nghĩ và hình dung đến những gì đang xảy ra ở ngôi làng nhỏ bé ấy. Chỉ có một đoạn ngắn ở bìa lưng cuốn sách giới thiệu linh mục dòng Phanxicô đó, vậy mà ngay lập tức, tôi đã cảm thấy gắn bó với ông.
Cuối cùng, tôi thấy tôi đã sẵn sàng để viết về Mễ Du. Thời gian nghiên cứu chiếm gần hết tháng 11, nhưng không phải thời gian uổng phí. Do tính cách sâu rộng của câu chuyện, tôi quyết định viết luôn một loạt bốn bài, và cho ra mắt độc giả trong suốt tháng 12, với hi vọng kết thúc đúng vào lễ Giáng Sinh.
Tôi vội vàng trở lại văn phòng, dặn Denease lần nữa là đừng để ai quấy rầy tôi. Vừa đút tờ giấy vào máy đánh chữ, tôi thấy thôi thúc muốn cầu nguyện: “Lạy Chúa, con xin tạ ơn Ngài về việc này”, tôi thầm thĩ: “Xin Chúa giúp đỡ con trong những gì con phải làm.”
Ý tưởng đến với tôi khi tôi cần, và mấy ngón tay lướt bay trên bàn phím của máy đánh chữ khi tôi khởi sự bài báo thứ nhất:
Ngày 4-12-1985
Phép lạ tại Mễ Du
Phần 1 : Những cuộc hiện ra
Trong vòng bốn tuần lễ tới của tháng 12, tôi sẽ cố gắng kể cho các bạn, một cách trung thực nhất, về một biến cố được coi là đang xảy ra tại một ngôi làng nhỏ bé, giữa vùng đồi núi thuộc miền Trung nước Nam Tư. Đó là một biến cố tôn giáo siêu nhiên, nên chắc chắn sẽ bị nhiều người nhìn nó với con mắt hoài nghi. Quả thật, vì đây lại là vùng Công giáo toàn tòng, nên càng bị nghi ngờ hơn nữa. Đã hẳn, nếu chính cá nhân tôi không tin rằng có một việc quan trọng đang xảy ra ở nơi đó, thì tôi sẽ không bao giờ viết về nó. Tuy nhiên, xin nói ngay từ đầu: Tôi không có ý định tuyên truyền để người ta theo đạo Công giáo, vì chính tôi không phải là người Công giáo; tôi cũng không định tuyên truyền để người ta tin vào Thiên Chúa. Hãy để cho mỗi người tự quyết định về nhu cầu của mình dựa trên các thông tin Phần tôi, tôi chỉ muốn tặng các thông tin này cho các bạn nhân dịp Noel thôi.
* * *
Hình chụp năm đầu tiên Đức Maria hiện ra với 6 thiếu niên nam nữ, mà em nhỏ nhất mới lên 10 tuổi. Trên hình, có thể thấy em lọt thỏm giữa mấy em khác, chỉ nhô cái mặt lên.
|
Từ bốn năm rưỡi nay, Mễ Du, một ngôi làng nhỏ bé tại vùng đồi núi miền Trung nước Nam Tư, đã lôi kéo sự chú ý của thế giới như là nơi mà Thân Mẫu Chúa Giêsu, Đức Trinh Nữ Maria, được cho là đã hiện ra mỗi ngày cho sáu thiếu niên nam nữ. Khi tôi viết bài này, những cuộc hiện ra được báo là vẫn tiếp diễn hằng ngày. Mặc cho những nỗ lực từ phía nhà cầm quyền, nhằm gây hoang mang trong dân chúng về tính xác thực của sự việc này và cản trở người ta tới nơi hiện ra, hằng triệu người đã và đang đổ xô đến đó, để được tai nghe mắt thấy điều đang xảy ra. Nam Tư dĩ nhiên là một nước Xã hội Chủ nghĩa, không công nhận một tôn giáo nào, cũng không tin sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng dân chúng lại đa số là Công giáo, nên Nhà nước bất đắc dĩ đành cho phép họ làm việc thờ phượng bên trong các nhà thờ mà thôi.
Theo chứng của mấy trẻ, gọi là thị nhân, sứ điệp của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc thì đơn giản và rõ ràng: Người hiện đến với các thị nhân, để nói cho thế giới hãy mau kíp quay về với đường lối Thiên Chúa, hoán cải lối sống của mình mà giao hòa với Thiên Chúa và với đồng loại. Bà sẽ trao cho mỗi thị nhân mười sứ điệp – hoặc “bí mật” - về những gì sẽ xảy đến trên thế giới một ngày rất gần. Những sứ điệp (hay bí mật) đó sẽ là những dấu trông thấy được, cho nhân loại biết là sự kiện hiện ra tại Mễ Du thì có thật, và việc trở lại với Thiên Chúa phải được bắt đầu từ bây giờ. Khi Bà thôi hiện ra với các thị nhân - lúc nào, thì chỉ có sáu em đó biết thôi - sẽ có một Dấu lạ trường kỳ để lại tại Mễ Du. Dấu lạ ấy sẽ khởi phát nhiều việc chữa lành bệnh tật và nhiều cuộc hoán cải trong thời gian ngắn ngủi còn lại, trước khi các bí mật được thực hiện .
Theo lời các em thị nhân, con đường dẫn đến hối cải là cầu nguyện và ăn chay. Từ những lần hiện ra đầu tiên ngày 24-6-1981, các em thị nhân dành 4 giờ mỗi ngày để cầu nguyện, hoặc có khi hơn; các em ăn chay ba lần mỗi tuần với bánh mì và nước lã.
Cho những ai có tính hoài nghi trước một sự kiện như thế, khoảng cách về tuổi của sáu thiếu niên tại Mễ Du là một điều đáng chú ý. Lúc ban đầu, em nhỏ nhất chỉ mới có 10 tuổi, một em khác 15 tuổi, ba em 16 tuổi và em lớn nhất 17 tuổi. Bốn gái và hai trai.
Các thiếu niên được Đức Trinh Nữ Maria hiện ra này là ai? Chúng là những trẻ bình thường, chỉ khác nhau (như tôi đã nói) ở tuổi tác và cá tính. Tất cả các em đều có trí thông minh trung bình, chỉ trừ Mirjana Dragicevic, em thứ ba trong các em có tuổi lớn nhất, thì đang học Đại học Sarajevo, nơi gia đình em hiện đang sống.
Marija Pavlovic, một trong mấy đứa lớn nhất trong nhóm, có chiều cao trung bình, thân hình mảnh mai, là thị nhân điềm tĩnh nhất và có đời sống thiêng liêng sâu sắc nhất. Em dự định trở thành nữ tu.
Vicka Ivankovic, em lớn tuổi hơn cả, cũng dự định đi tu. Em có thân thể khỏe mạnh, gương mặt rất biểu cảm. Em là người thu hút nhất trong nhóm, nhưng không hề có vẻ gì “làm bộ” cả.
Ivanka Ivankovic, trẻ nhất trong bốn cô gái, là thiếu nữ duy nhất trong nhóm có dự định kết hôn. Em xinh xắn nhất và có dáng dấp gái choai choai thời đại, nhưng đạo đức lại rất vững vàng.
Ivan Dragicevic, lớn nhất trong hai cậu con trai, ước ao làm linh mục. Cậu có tính nhút nhát, thích kín đáo nhất trong nhóm và luôn có vẻ nghiêm trang, trầm ngâm.
Thị nhân trẻ tuổi nhất, sinh động nhất, nay đã 13 tuổi, là Jacov Colo. Khi các cuộc hiện ra bắt đầu, em mới có 10 tuổi. Cũng như các thị nhân khác, em hoàn toàn bình thường.
Sự hiện diện của bé trai (Jacov) hiếu động này trong nhóm thị nhân, nói lên sự xác thực của các cuộc hiện ra. Cứ so sánh em này với con hay em trai ta cùng tuổi đó: thật rất khó lòng mà nó chịu đi nhà thờ cầu nguyện từ hai đến ba giờ mỗi ngày, mùa hè cũng như mùa đông, trời tốt cũng như trời xấu, đằng đẵng suốt bốn năm trời, chỉ để làm cho người ta tin rằng nó đã thấy một sự hiện ra thánh thiêng từ Thiên Chúa.
Sáu em thị nhân buổi ban đầu 1981. |
Bé Jacov, 10 tuổi, lúc Đức Mẹ hiện ra với em và 5 anh chị lớn hơn. |
Có quá nhiều điều để nói về Mễ Du. Có lẽ một trích đoạn dưới đây từ một báo cáo trình lên Đức Giáo Chủ, do yêu cầu của Đức Maria (theo lời các em), sẽ tóm tắt phần này tốt nhất. Một linh mục Công giáo tên Tomislav Vlasic, người đã liên quan đến sự kiện hiện ra từ những ngày đầu, được Mirjana yêu cầu làm việc này.
Sau đây là một đoạn trong báo cáo ấy của linh mục:
Theo lời Mirjana, trong lần hiện ra ngày 25-12-1982, Đức Mẹ trao cho em bí mật thứ mười, cũng là bí mật cuối cùng, và cho em biết ngày tháng sẽ thể hiện các bí mật đó. Đến lúc này thì Đức Trinh Nữ tiết lộ cho Mirjana nhiều khía cạnh của tương lai hơn, so với các em thị nhân kia cho đến bây giờ. Vì lý do đó, con xin tường trình những gì Mirjana đã nói với con, trong lần nói chuyện hôm 5-11-1983. Con nói tóm tắt những điều chính yếu em đã nói mà không trích dẫn nguyên văn.
Mirjana nói: “Trước khi Dấu chỉ hữu hình được ban cho nhân loại, sẽ có ba cảnh báo cho thế giới. Những cảnh báo này sẽ xảy đến trên mặt địa cầu, Mirjana sẽ làm chứng về chúng. Ba ngày trước khi xảy ra một trong những cảnh báo đó, em sẽ báo cho một linh mục do em chọn. Chứng tá của Mirjana sẽ là một xác nhận sự kiện hiện ra là thật và là sự thúc giục người ta ăn năn hối cải. Sau ba lần cảnh báo này, một Dấu chỉ hữu hình sẽ được ban cho toàn nhân loại tại địa điểm hiện ra ở Mễ Du. Dấu chỉ đó sẽ được ban ra, như một xác minh về sự kiện hiện ra và như một lời kêu gọi loài người trở lại với đức tin.
Bí mật thứ chín và thứ mười gồm những chuyện nghiêm trọng. Đó là những trừng phạt tội lỗi của thế giới. Trừng phạt không thể nào tránh khỏi, bởi chúng ta không trông mong có sự hối cải của cả thế giới. Hình phạt có thể được giảm bớt nhờ lời cầu nguyện và đền tội - nhưng không thể bỏ hẳn. Mirjana nói: Có một tai họa đe dọa thế giới theo bí mật bảy, đã được giảm bớt nhờ cầu nguyện và ăn chay. Bởi vậy, Đức Trinh Nữ liên tiếp kêu gọi cầu nguyện và chay tịnh: “Các con đã quên là với cầu nguyện và chay tịnh, các con có thể chặn đứng chiến tranh và làm đình chỉ các định luật thiên nhiên”.
Sau cảnh báo đầu tiên, các cảnh báo khác sẽ xảy ra tiếp theo trong một thời gian ngắn, đủ để người ta có thời giờ mà hối cải.
Đây là thời gian ân sủng và hối cải. Sau Dấu chỉ hữu hình, những người còn sống sẽ chỉ có ít thời gian để ăn năn hối cải. Chính vì lý do đó mà Đức Trinh Nữ Diễm Phúc kêu gọi loài người hãy cấp bách ăn năn hối cải và làm hòa với Thiên Chúa.
Lời kêu gọi cầu nguyện và đền tội có mục đích đẩy lui cái ác và chiến tranh, và nhất là để cứu các linh hồn.
Theo lời Mirjana, chúng ta đang gần kề những biến cố đã được Đức Trinh Nữ tiên báo. Vì vậy, Mirjana nói với nhân loại: “Hãy mau mắn ăn năn hối cải càng sớm càng tốt! Hãy mở lòng ra với Thiên Chúa!”
Cha Vlasic cho thêm một số thông tin liên quan đến các bí mật, nhân một cuộc phỏng vấn thu băng vào tháng 8-1983: “Các thị nhân nói rằng: một khi các bí mật mà Đức Mẹ đã ủy thác cho các em được thực hiện, cuộc sống trên thế giới sẽ thay đổi. Sau đó, nhân loại sẽ tin như thời xưa. Cái gì thay đổi và thay đổi như thế nào, chúng ta sẽ không biết được cho đến khi các bí mật được tiết lộ.”
Những dòng chữ ngắn ngủi trên này bao hàm rất nhiều điều về các biến cố phi thường tại Mễ Du. Còn việc những sự đó có xác thực hay không, đó là tùy mỗi người chúng ta quyết định lấy.
* * *
Tôi ngả đầu ra phía sau, rồi duỗi người ra. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua, cũng bằng với thời gian như khi tôi ngồi thẫn thờ vài tuần trước đây, đăm đăm nhìn vào tờ giấy trắng nguyên si, không viết được chữ nào. Lần này, hình như không lâu bằng. Tôi không thể nhớ mình đã từng bao giờ viết được cái gì một cách dễ dàng như thế.
Cầm xấp giấy đi vào khu in ấn, tôi báo cho Smitty biết bài này và ba bài sau sẽ đăng dài hơn bình thường. Thế rồi, tôi đóng cửa văn phòng và trở về nhà.
---o0o---