Nguồn từ Trang web Người Tín Hữu
Phần 4: Cha Gioan Vianney Chữa Bệnh Phần Xác, Phần Hồn
Chương 4 :
Cha Gioan Luôn Phải Buồn Sầu Lo Lắng
Khi xưa Chúa Giêsu ở dưới thế luôn phải lo buồn sầu não, trong Phúc Âm người ta chỉ thấy Chúa khóc chứ không thấy Chúa cười, vì tội lỗi loài người luôn đè nặng trên tâm hồn Chúa. Con người ở những thời đại sau này mê đắm tội lỗi, không màng gì đến công nghiệp của Người đã lập cho họ, không hề biết đến lòng thương yêu vô bờ bến của Người nên Người buồn lòng. Cha Gioan là môn đệ của Chúa Giêsu, luôn noi gương bắt chước Thầy mình nên cũng lo buồn đau khổ trong lòng mãi, không vui vẻ bao giờ. Hai ba tháng trước khi qua đời, ngài than thở:
- Than ôi! Ở thế gian này tôi phải sầu khổ, cay đắng biết bao! Nếu khi đến nhận xứ Ars mà tôi biết những đau khổ buồn sầu tôi phải chịu trong bốn mươi mốt năm vừa qua, thì có lẽ tôi đã chết vì sợ hãi.
Lý do thứ nhất làm cha Gioan buồn sầu đau khổ là gánh nặng trách nhiệm của một linh mục chánh xứ, và lo sợ mất linh hồn mình trong khi lo lắng cho linh hồn người khác, nên cha đã xin nghỉ việc coi sóc con chiên nhiều lần, cũng như đã bỏ xứ mà trốn đi ba bốn lần. Cha thường nói:
- Không có mấy ai làm chánh xứ mà là thánh. Khi mở sách nguyện chúng ta chỉ thấy toàn là giám mục, tu sĩ các dòng và nhiều giáo dân làm thánh, còn những linh mục chánh xứ thì ít lắm. Thánh Vicentê, Thánh Phanxicô Regis, Thánh Gioan Canxiô, đầu tiên có làm cha xứ được ít lâu, nhưng sau các ngài thấy công việc nặng nề cheo leo nên đi tu dòng hết. Vì cha xứ thì hay kiêu ngạo, tham lam của cải, để tâm trí vào việc làm ăn, lo lắng việc chi tiêu, không cố gắng tập tành các nhân đức cũng như giúp các con chiên để họ được rỗi linh hồn.
Cha Gioan coi việc làm cha xứ là một trách nhiệm nặng nề và cao quý. Cha luôn sợ hãi và cố gắng chu toàn sợ rằng mình làm công việc ấy bất xứng. Có một lần cha Gioan nói với một linh mục kia:
- Ở trần gian, chúng ta không hiểu được Thánh Lễ và việc chúng ta được dâng lễ là cao trọng chừng nào đâu, chỉ ở trên thiên đàng chúng ta mới hiểu được sự cao trọng ấy. Để dâng Thánh Lễ cho xứng đáng, chúng ta phải có một tấm lòng thanh sạch và sốt sắng như các thiên thần mới được. Căn nguyên làm cho các linh mục sa sút, khô khan bởi vì các ngài không coi trọng việc dâng Thánh Lễ cho xứng đáng, mà làm như một công việc thường ngày vậy. Khốn cho linh mục nào coi thường việc dâng Thánh Lễ, không giữ lòng sạch tội, không dọn mình trước, không cám ơn rước lễ đủ và dâng lễ vội vàng hấp tấp. Người linh mục phải thi hành các bí tích cho giáo dân, đây là gánh nặng đáng sợ cho linh mục. Nếu như người ta hiểu chức vụ linh mục nặng nề, gian nan biết bao thì không những không ai muốn tiến lên chức vụ ấy mà còn trốn đi để khỏi phải chịu chức vụ cao trọng đó như các thánh ngày xưa đã làm.
Lý do thứ hai làm cha Gioan lo buồn sầu não vì cha là người khiêm nhường, thường coi mình là dốt nát, yếu đuối, không có tài cán gì, chẳng có nhân đức nên chẳng đáng làm linh mục coi sóc linh hồn người ta. Thiên Chúa nhân lành vô cùng, thương yêu cha cách riêng, và muốn cho cha thêm nhiều công phúc nên giấu không cho cha biết các việc lành cha làm, danh tiếng cha vang lừng khắp nơi thế nào, nên dù cha đã khuyên được nhiều người tội lỗi cứng lòng ăn năn trở lại, cha vẫn thấy mình là người đầy tớ vô ích, không làm được gì cho chủ mình, chẳng những cha nghĩ mình không làm nổi mà còn ngăn trở và phá hỏng việc của Thiên Chúa.
Mọi người đến xứ Ars, khi thấy những việc làm và cách ăn ở của cha Gioan thì đều trọng kính, khen ngợi các nhân đức của cha và gọi cha là thánh sống, trong khi cha vẫn luôn coi mình là người hèn hạ, tội lỗi, không có một nhân đức nào. Những người sang trọng quyền thế, danh giá, vọng tộc trong đạo ngoài đời, khi gặp những điều rối trí phiền lòng, không giải gỡ được thì đều kéo đến xứ Ars để hỏi han, xin cha chỉ bảo giúp đỡ, nhưng cha thì vẫn luôn tin mình là người dốt nát chẳng có tài trí hay khôn ngoan gì.
Cha thường nói:
- Tôi cảm ơn Chúa vô cùng vì Chúa đã định cho tôi hèn hạ yếu đuối, không có nhân đức hay tài trí nào để tôi không kiêu ngạo được. Khi xét mình, tôi chẳng thấy mình có điều gì tốt, chỉ thấy tội lỗi mà thôi. Phải chi tôi biết được các tội tôi đã phạm để ăn năn trở lại cùng Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã giấu bớt các tội tôi đã phạm vì Người sợ tôi biết mà ngã lòng chăng.
Lý do thứ ba cha Gioan buồn sầu đau khổ vì cha luôn thấy những tội lỗi nặng nề người ta phạm làm mất lòng Chúa nên cha thường than thở:
- Than ôi! Bây giờ tôi mới hiểu được hậu quả của tội tổ tông dữ dằn và kinh khiếp biết chừng nào. Khi nghĩ đến việc loài người xúc phạm đến Chúa cách nặng nề như thế, nhiều khi tôi chỉ muốn xin Chúa hủy diệt loài người, nhiều khi tôi ước ao ngày tận thế đến ngay lúc này. Nếu thỉnh thoảng tôi không gặp được một vài người thanh sạch khiến tôi được an ủi thì tôi đã chết từ lâu rồi. Khi tôi nghĩ đến nhiều người bội bạc, lỗi nghĩa cùng Chúa nặng nề thì lòng tôi buồn sầu đau đớn, muốn trốn vào nơi vắng vẻ cho khỏi xem thấy mặt những người ấy. Nếu như Thiên Chúa độc ác cay nghiệt thì loài người giận ghét, sỉ nhục là phải. Nhưng Thiên Chúa rất nhân từ, là người Cha nhân hậu hằng thương yêu và ban phát mọi ơn cho thế gian.
Khi cha nói những lời ấy, cha vừa nói vừa khóc. Hôm khác, cha nói:
- Tôi ở với người tội lỗi mãi nên tâm hồn tôi chán ngán lắm; linh hồn tôi buồn phiền lắm vì tai tôi luôn nghe những điều làm tôi cực lòng.
Khi nhớ đến những tội lỗi người ta xưng, lòng cha quặn thắt, đau khổ tâm trí mà không sao nói được. Cha nói:
- Ở thế gian này không có bậc nào khổ cực cho bằng bậc linh mục, vì linh mục phải nghe tội lỗi của mọi người, hoặc nghe thấy những tội lỗi kinh sợ lỗi nghĩa cùng Chúa. Tai mắt của người linh mục toàn nghe thấy tội lỗi của người ta, chẳng khác nào Thánh Phêrô khi ở trong sân dinh quan Philatô, xem thấy đủ mọi thứ người làm khốn Chúa Giêsu: Người thì nhổ nước bọt cùng vả vào mặt Chúa Giêsu, người thì đội mão gai lên đầu rồi nhạo cười xỉ nhục cùng xô đẩy khiến Người ngã xuống đất nhiều lần, lại còn dày đạp dưới chân họ nữa. Than ôi! Nếu ngày xưa tôi biết bậc linh mục khốn cực như vậy thì tôi đã vào dòng tu rồi, chẳng dám chịu chức linh mục đâu. Tôi đã xin về hưu, xin từ chức chánh xứ nhiều lần. Nếu như bề trên nhận lời thì tôi đã bỏ xứ này vào nơi vắng vẻ để đọc kinh cầu nguyện, ăn chay đền tội và giúp người bệnh trong nhà thương trọn đời.
Vì cha hay nhớ những lý do trên, nên lòng cha luôn nặng trĩu buồn sầu. Những công việc rất nặng nề khiến cha phải khó nhọc đêm ngày đều không làm cha bớt phiền muộn hay quên đi được. Khi cha thấy họ tỏ ra quý mến kính trọng, cha càng thêm buồn bã xấu hổ, vì cha coi mình là người hèn hạ tội lỗi không đáng cho mọi người kính mến. Cha thấy người ta kéo nhau đến xứ Ars một ngày một đông hơn nên lo lắng sợ hãi, vì thấy gánh mình càng ngày càng nặng và cha thấy mình sức yếu đuối không thể gánh nổi thì càng lo âu hơn nữa.
Khi buồn lo, cha giấu kín trong lòng không tỏ ra bề ngoài cho ai biết sự buồn khổ. Cha không bỏ bê, trễ nải việc bổn phận nào nhưng luôn vui vẻ, hòa nhã và cố gắng làm bổn phận hằng ngày. Những khi ấy cha lại càng đọc kinh, cầu nguyện sốt sắng và đánh phạt xác thịt mình hơn mọi khi.