Học và Sống Năm Thánh Kinh
Trong sứ điệp kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa trong Đời Sống Hội Thánh, các Nghị Phụ đã viết: 
“Thánh Kinh ‘làm chứng’ cho Lời Chúa dưới dạng văn tự. Người ta ghi nhớ biến cố tạo dựng và cứu độ của mặc khải bằng phương tiện quy điển, lịch sử và văn tự. Cho nên, Lời Chúa có trước và vượt trên Sách Thánh Kinh, là sách cũng được Thiên Chúa ‘linh hứng’ và chứa đựng Lời hiệu nghiệm của Thiên Chúa (x. 2 Tm 3:16). Đó là lý do tại sao Đức Tin của chúng ta không đặt trọng tâm vào một quyển sách, nhưng vào một lịch sử cứu độ, và như chúng ta sẽ thấy, vào một người, là Đức Chúa Giêsu Kitô, Lời Chúa làm người, một người trong lịch sử. Chính vì quyền hạn của Lời Chúa bao gồm và trải ra ngoài Thánh Kinh, sự hiện diện liên tục của Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ ‘dẫn đưa anh em đến chân lý trọn vẹn’ (Ga 16:13) là điều cần thiết đối với những người đọc Sách Thánh Kinh. Đây là Truyền Thống cao quý: sự hiện diện có hiệu quả của ‘Thần Chân Lý’ trong Hội Thánh, là cơ quan gìn giữ Thánh Kinh, được giải thích cách xác thực bởi Huấn Quyền của Hội Thánh. Truyền Thống này giúp cho Hội Thánh hiểu, giải thích, truyền thông và làm chứng cho Lời Chúa. Chính Thánh Phaolô, trong khi công bố Kinh Tin Kính đầu tiên của Kitô giáo, đã nhìn nhận sự cần thiết phải ‘truyền lại’ điều ngài ‘đã nhận được’ từ Truyền Thống (1 Cor 15:3-5).’

Trong những bài trước chúng ta đã bàn về các phương pháp giải thích Thánh Kinh liên quan đến lịch sử và văn chương cũng như văn tự. Hôm nay chúng ta sẽ bàn đến việc giải thích Thánh Kinh theo Phương Pháp Quy Điển.

I. Phương Pháp Quy Điển là gì?

Phương pháp Quy Điển là phương pháp giải thích Thánh Kinh trong đó chú trọng đến việc các bản văn lịch sử này được cộng đồng tín hữu thu thập lại thành một Quy Điển Thánh Kinh. Đối với những người giải thích Thánh Kinh theo phương pháp này, thì quan niệm về quy điển đưa đến ba hiệu quả chính trong việc giải thích Thánh Kinh. 

1. Sự chú trọng đến những gì xảy ra trước khi bản văn Thánh Kinh được soạn thảo và các nguồn tài liệu có trước đó của các nhà phân tích lịch sử được thay thế bằng việc đặt trọng tâm vào dạng quy điển cuối cùng của Sách Thánh như là một khối duy nhất. Mỗi đoạn được cắt nghiã theo mạch văn của toàn thể cuốn sách. 

2. Qua việc đặt một sách vào quy điển Thánh Kinh, sách ấy được đặt vào một khung cảnh mới. Sách ấy giờ đây trở thành phần tử của bộ Thánh Kinh. Quy điển cung cấp cho chúng ta một phạm vi để giải thích Thánh Kinh. Phạm vi ấy là toàn bộ Thánh Kinh. 

3. Quy điển là một sưu tập các bản văn "thánh" có địa vị uy quyền đối với một cộng đồng tôn giáo. Các sách này được công nhân là mặc khải bởi Thiên Chúa, là những thông điệp từ Thiên Chúa, và tiếp tục thích hợp với cộng đồng tín hữu, cùng siêu vượt các giới hạn của tình trạng lịch sử nguyên thủy của chúng. Các nhà chú giải theo Quy Điển cắt nghĩa các bản văn Thánh Kinh như là những bản văn thánh và cố gắng giải thích ý nghĩa của các bản văn này cho cộng đoàn tín hữu hiện đại.

II. Tầm Quan Trọng của Phương Pháp Quy Điển

Việc giải thích Thánh Kinh theo Quy Điển rất quan trọng bởi vì Hội Thánh hiểu Thánh Kinh như một bộ sách sưu tập các văn bản được Thiên Chúa linh hứng và được Hội Thánh công nhận. Bộ sách này là quy luật có thẩm quyền về Đức Tin. Cho nên nếu chỉ dung các phương pháp Phân Tích Lịch Sử và Văn Chương mà thôi thì chưa đủ. Cần phải giải thích theo Thần Học, nghĩa là giải thích Thánh Kinh như những thông điệp của Thiên Chúa gửi cho Dân Chúa qua dòng lịch sử. 

Hơn nữa, mỗi sách trong Thánh Kinh phải được cắt nghĩa như là một phần của toàn bộ Thánh Kinh. Toàn thể Thánh Kinh đều được linh hứng. Trong sự đa dạng của Thánh Kinh lại có một sự hiệp nhất về chân lý là kết quả của sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, là Đấng thúc đẩy và hướng dẫn các thánh sử viết các sách trong Quy Điển, được Hội Thánh thu thập và công nhận. Đối với nhà chú giải Thánh Kinh Công Giáo thì sự hiệp nhất này được tìm thấy trong Đức Kitô, là Đấng kiện toàn Cựu Ước và là trọng tâm của Tân Ước. 

Trong diễn từ đọc trước Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa ngày 19/10/2008, ĐTC Bênêđictô XVI đã nói: 

“Công Đồng [Vaticanô II] dạy rằng, theo một quy luật căn bản cho bất cứ việc cắt nghĩa một bản văn nào, Thánh Kinh phải được giải thích trong cùng một tinh thần mà trong đó Thánh Kinh được viết. Do đó Công Đồng đưa ra ba yếu tố căn bản về phương pháp để không quên bình diện Thiên Chúa, là khoa thần khí học của Thánh Kinh: nghĩa là một người phải 1) giải thích bản văn mà không quên tính duy nhất của toàn thể Thánh Kinh; ngày nay phương pháp này được gọi là Chú Giải Thánh Kinh theo Quy Điển (Canonical Exegesis). Vào thời điểm của Công Đồng chưa có từ này, nhưng Công Đồng đã nói cùng một điều: người ta không được quên tính duy nhất của toàn thể Thánh Kinh; 2) một người cũng không được quên truyền thống sống động của toàn thể Hội Thánh, và sau cùng 3) phải tôn trọng tính loại suy Đức Tin. Chỉ khi nào cả hai mức độ về phương pháp học này, là phân tích lịch sử và thần học, được tôn trọng, thì một người có thể nói về khoa chú giải Thánh Kinh theo thần học -- một loại chú giải Thánh Kinh thích hợp cho Sách này [Thánh Kinh]. Trong khi việc chú giải Thánh Kinh ở đại học theo mức độ thứ nhất hoạt động ở một tầm mức rất cao và thật sự có ích cho chúng ta, nhưng chúng ta không thể nói như thế về mức độ kia. Thường mức độ thứ nhì này, là mức độ gồm có ba yếu tố thần học được ám chỉ bởi Dei Verbum hầu như vắng mặt. Và điều ấy đưa đến những hậu quả khá trầm trọng.

Hậu quả thứ nhất của việc vắng bóng của mức độ phương pháp học thứ nhì này là Thánh Kinh trở thành một cuốn sách chỉ nói về quá khứ. Các hậu quả về luân lý có thể được rút ra từ đó, một người có thể học về lịch sử, nhưng Sách chỉ nói về quá khứ và việc chú giải nó không còn có tính cách thần học thật sự nữa, mà trở thành thuật chép sử, là lịch sử của văn chương. Đây là hậu quả đầu tiên: Thánh Kinh tiếp tục ở trong quá khứ, chỉ nói về quá khứ. Còn có một hậu quả thứ nhì trầm trông hơn nhiều: ở đó những cách giải thích Thánh Kinh theo Đức Tin như được Dei Verbum ám chỉ bị mất dạng, mà tất yếu xuất hiện một loại giải thích Thánh Kinh khác, giải thích Thánh Kinh theo thế tục, theo chủ nghĩa thực chứng, mà nguyên tắc chính của nó là việc biết chắc chắn rằng Thiên Chúa đã không xuất hiện trong lịch sử nhân loại. Theo loại chú giải Thánh Kinh này, khi nào xem ra có những yếu tố thuộc về Thiên Chúa, người ta phải giải thích nó từ đâu đến và biến nó thành yếu tố hoàn toàn nhân loại.”

III. Giới hạn của Phương Pháp Quy Điển

Đối với các học giả Công Giáo, việc giải thích Thánh Kinh theo Qui Điển phải đi song song với việc giải thích Thánh Kinh theo Hội Thánh. "Qui Điển" ám chỉ một cộng đồng tôn giáo có khả năng và quyền hạn để thừa nhận những sách nào thuộc về quy điển và loại ra ngoài quy điển những sách khác. "Chú giải Thánh Kinh theo Quy Điển" chấp nhận "cái cộng đồng lập ra Quy Điển", là Hội Thánh, như là một phạm vi mà trong đó Thánh Kinh được giải thích. 

Việc Công Giáo tôn trọng "lịch sử" của mặc khải đưa đến một số thận trọng đối với Phương Pháp Quy Điển trong việc giải thích Thánh Kinh. Quy điển của Kitô giáo đưa người ta đến việc đọc Thánh Kinh của Do Thái như là "Cựu Ước" được nên trọn trong Tân Ước là làm chứng cho Đức Kitô. Trong tài liệu Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh, Ủy ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh xác nhận cách đọc Cựu Ước quy chiếu về Đức Kitô này, nhưng khuyến cáo rằng cách giải thích như thế không có nghĩa là hoàn toàn bất chấp những ý nghĩa trước đây của những sách Thánh Kinh ấy: 

Phải tôn trọng mỗi giai đoạn của lịch sử Cứu Độ. Loại bỏ hoàn toàn các ý nghĩa riêng của Cựu Ước có nghĩa là nhổ Tân Ước ra khỏi các cội nguồn trong lịch sử. 

Tôn trọng sự khác biệt về văn chương và thần học của Thánh Kinh đưa đến một thận trọng khác về Phương Pháp Quy Điển. Việc giải thích Thánh Kinh theo Quy Điển cũng phải tôn trọng sự khác biệt về các hình thức văn chương và các quan điểm thần học tìm thấy trong Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh dưới ánh sáng của toàn thể Quy Điển không có nghĩa là tạo ra những sự hòa hợp hay thống nhất giả tạo bất chấp sự khác biệt về các thể văn và quan điểm thần học trong Quy Điển Thánh Kinh. 

Kết Luận

Phương Pháp Quy Điển là một trong ba yếu tố để đưa Thiên Chúa và Hội Thánh vào việc giải thích Thánh Kinh. Ở đây chúng tôi chỉ bàn đến Quy Điển Công Giáo, vì Do Thái và Tin Lành có những quy điển khác. Do Thái giáo và Kitô giáo không những chỉ có các sách khác nhau, mà những sách có chung trong hai quy điển lại không được xắp đặt giống nhau, tạo thành hai cấu trúc về quy điển khác nhau cho một tuyển tập tương tự. Trong khi quy điển của Công Giáo và Tin Lành có cách xắp đặt gần giống nhau, nhưng lại khác nhau về nội dung của Cựu Ước. Một số học giả Thánh Kinh thời nay đề nghị một quan niệm về quy điển mở rộng và uyển chuyển hơn bao gồm cả những sách Hipri và Kitô giáo đã bị loại ra ngoài quy điển hiện hành. Mỗi cách giải thích Thánh Kinh theo Quy Điển sẽ trình bày lối cắt nghĩa theo phạm vi quy điển của giáo hội mình. Những người đọc Thánh Kinh trong phạm vi quy điển phải đọc với một ý thức về phạm vi quy điển và giải thích của giáo hội xuất bản quyển sách ấy. Vì thế muốn giải thích Thánh Kinh theo Quy Điển Công Giáo một cách đúng đắn, chúng ta cần phải trung thành với Truyền Thống của Hội Thánh và tuân theo Giáo Huấn của Huấn Quyền.


Phaolô Phạm Xuân Khôi
Vietcatholic news