Chương trình đọc Kinh Thánh
Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam vùng Montréal
18-2-2013 tới 4-11-2013
Lời Mời gọi của HĐGMVN:
Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”, khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu. Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày, đặc biệt theo phương thức Lectio pina. (Thư Chung của HĐGMVN, ngày 1.5.2011, số 11)
o o O o o
Trước khi bắt đầu đọc:
* Xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để hiểu được Lời Chúa, vì Ngài là tác giả.
* Sau đó đọc chậm rãi và nếu có thể gạch dưới những câu mà mình được đánh động.
* Có thể dừng lại để cầu nguyện với lời Chúa khi thấy nhu cầu.
* Hãy trung thành đọc Lời Chúa hằng ngày. Hãy bỏ ra một số thời giờ nhất định cho Lời Chúa.
Tuần 14: từ 20 tháng 5 tới 26 tháng 5-2013
- Thứ hai 20-5-2013: câu 1-13
- Thứ ba 21-5-2013: Câu 1-15
- Thứ tư 22-5-2013: Câu 1-25
- Thứ năm 23-5-2013: Lc 1,1-80
- Thứ sáu 24-5-2013: Lc 2,1-52
- Thứ bảy 25-5-2013: Lc 3,1-38
- Chúa nhật 26-5-2013: Lc 4,1-44
2Gioan (2Ga)
Thứ hai 20-5-2013: 2Ga câu 1-13
Lời chào
1 Tôi là kỳ mục, kính gửi Bà đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và con cái Bà là những người mà tôi thực sự quý mến; không phải chỉ một mình tôi, mà là tất cả những ai đã biết sự thật cũng đều quý mến,
2 bởi vì sự thật ở lại trong chúng ta và sẽ ở với chúng ta mãi mãi.
3 Thiên Chúa là Cha và Đức Giê-su Ki-tô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta được hưởng ân sủng, lòng thương xót và bình an, trong sự thật và tình thương.
Điều răn yêu thương
4 Tôi rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà, những người sống trong sự thật, đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha.
5 Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này -đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu- đó là: chúng ta phải yêu thương nhau.
6 Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa. Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là: anh em phải sống trong tình thương.
Những kẻ phản Ki-tô
7 Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian, họ là những kẻ không tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm. Đó là kẻ mê hoặc và là tên phản Ki-tô.
8 Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng.
9 Phàm ai đi quá xa, không ở lại trong giáo huấn của Đức Ki-tô, thì không có Thiên Chúa. Còn ai ở lại trong giáo huấn, thì người ấy có Chúa Cha và Chúa Con.
10 Nếu ai đến với anh em mà không đem theo giáo huấn ấy, anh em đừng đón vào nhà và cũng đừng chào hỏi người ấy.
11 Quả thật, ai chào hỏi là cộng tác vào những việc xấu xa của người ấy.
Kết luận
12 Tôi còn có nhiều điều phải viết cho anh em, tôi không muốn dùng giấy mực. Nhưng tôi hy vọng có thể đến với anh em và nói chuyện trực tiếp, để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.
13 Các con của người chị em Bà, người chị em đã được Thiên Chúa tuyển chọn, gửi lời kính chào Bà.
3 Gioan (3Ga)
Thứ ba 21-5-2013: 3Ga: Câu 1-15
Lời chào
1 Tôi là kỳ mục, gửi anh Gai-ô thân mến, người mà tôi thực sự quý mến.
2 Anh thân mến, tôi cầu chúc anh được mọi bề thịnh đạt: thể xác mạnh khoẻ và tinh thần phấn chấn.
Ca tụng ông Gai-ô
3 Quả thật, tôi rất vui mừng bởi có những anh em đến đây và làm chứng là anh gắn bó với sự thật, như anh vẫn sống trong sự thật.
4 Không có gì làm tôi vui sướng bằng khi nghe biết con cái tôi sống sự thật.
5 Anh thân mến, anh hành động theo đức tin trong mọi việc anh làm cho các người anh em, dù họ là những người xa lạ.
6 Họ đã làm chứng về đức bác ái của anh trước mặt Hội Thánh. Anh sẽ làm một việc nghĩa, nếu anh giúp đỡ cho chuyến đi của họ cách xứng đáng trước mặt Thiên Chúa.
7 Quả thật, chính vì danh Chúa, họ đã ra đi mà không nhận gì của người ngoại.
8 Vậy, chúng ta phải tiếp đón những con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá sự thật.
Hành vi của ông Đi-ốt-rê-phét
9 Tôi viết đôi lời cho Hội Thánh, nhưng Đi-ốt-rê-phét, một con người thích ăn trên ngồi trước, không chịu nhận quyền của chúng tôi.
10 Vì thế, nếu tôi đến, tôi sẽ nhắc lại cho anh ta những việc anh ta đã làm: anh ta cứ rêu rao những lời độc địa chống chúng tôi. Chưa lấy thế làm đủ, anh ta còn không tiếp đón các người anh em, và ai muốn tiếp đón thì anh ta ngăn cản và trục xuất khỏi Hội Thánh.
11 Anh thân mến, anh đừng bắt chước làm điều dữ, nhưng hãy bắt chước làm điều lành. Ai làm điều lành thì thuộc về Thiên Chúa; kẻ làm điều dữ thì đã không thấy Thiên Chúa.
Làm chứng cho ông Đê-mết-ri-ô
12 Mọi người đều làm chứng tốt cho anh Đê-mết-ri-ô, và chính sự thật cũng làm chứng như vậy. Cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng làm chứng cho anh ấy, và anh biết rằng lời chứng của chúng tôi là xác thực.
Lời kết thúc
13 Tôi còn có nhiều điều đáng lẽ phải viết cho anh, nhưng tôi không muốn dùng bút mực mà viết cho anh.
14 Tôi hy vọng sắp được gặp anh, và chúng ta sẽ nói chuyện trực tiếp.
15 Chúc anh được bình an! Các bạn hữu gửi lời chào anh. Cho tôi gửi lời chào các bạn hữu, đích danh từng người một.
Giuđa (Gđ)
Thứ tư 22-5-2013: Gđ: Câu 1-25
Lời mở đầu
1 Tôi là Giu-đa, tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô, anh em với ông Gia-cô-bê, xin gửi lời thăm những người được kêu gọi, được Thiên Chúa là Cha yêu mến, và được dành riêng cho Đức Giê-su Ki-tô.
2 Chúc anh em được đầy tràn lòng thương xót, sự bình an và tình thương.
Lý do viết thư
3 Anh em thân mến, tôi vẫn ước mong viết thư cho anh em về ơn cứu độ chung của chúng ta, thì nay lại bó buộc phải viết cho anh em, để khuyên nhủ anh em chiến đấu cho đức tin đã được truyền lại cho các thánh chỉ một lần là đủ.
4 Thật vậy, có những người đã len lỏi vào, những người từ lâu đã bị ghi trước vào danh sách những kẻ bị lên án, những kẻ vô luân này đã biến ân sủng của Thiên Chúa chúng ta thành lý do biện minh cho lối sống dâm ô, họ chối bỏ Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, vị Chúa Tể duy nhất.
Các thầy dạy giả hiệu. Hình phạt dành cho họ.
5 Cho dù anh em đã biết mọi sự chỉ một lần là đủ, tôi cũng muốn nhắc cho anh em nhớ lại rằng: Chúa đã cứu dân ra khỏi đất Ai-cập, sau đó lại tiêu diệt những kẻ không chịu tin.
6 Những thiên thần đã không giữ địa vị của mình, nhưng rời bỏ nơi mình ở, thì Người dùng xiềng xích mà giam giữ họ đời đời trong nơi tối tăm, để chờ phán xét trong Ngày lớn lao.
7 Còn Xơ-đôm, Gô-mô-ra và các thành lân cận làm chuyện gian dâm như họ và chạy theo những vui thú xác thịt trái tự nhiên, thì đã phải chịu lửa đời đời làm hình phạt để nêu gương.
Họ nói lộng ngôn
8 Cả những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ quyền của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh.
9 Khi bàn cãi và tranh luận với quỷ về thi hài ông Mô-sê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en cũng không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng phạt ngươi!
10 Nhưng họ, họ lại nói phạm đến những điều họ không biết; còn những điều họ biết được một cách tự nhiên như loài vật vô tri, thì chỉ làm cho họ phải tiêu diệt.
Họ là những kẻ gian tà
11 Khốn cho họ, bởi họ đi vào con đường của Ca-in; vì chút tiền công, họ đã ngã theo sự lầm lạc của Bin-am và bị diệt vong vì làm loạn như Cô-rắc.
12 Họ làm cho những bữa tiệc thân ái của anh em ra nhơ nhuốc; họ chè chén mà không biết xấu hổ, họ chỉ lo cho chính mình. Họ là mây không có nước, cuốn theo chiều gió. Họ là cây cuối mùa thu, không trái, chết hai lần, bị nhổ tận rễ.
13 Họ là sóng biển hung dữ, tung bọt là những hành vi bỉ ổi của họ. Họ là những vì sao lạc, u ám tối tăm là nơi dành cho họ đến muôn đời.
14 Ông Kha-nóc, tổ phụ thứ bảy sau ông A-đam đã tuyên sấm về họ rằng: Này Chúa đến giữa muôn vàn thần thánh của Người,
15 để xét xử mọi người, và kết án mọi kẻ vô luân về tất cả các việc vô luân của họ, về tất cả những lời hỗn xược quân tội lỗi vô luân đã nói phạm đến Người.
16 Họ là những người hay lẩm bẩm, phàn nàn, đi theo các dục vọng của mình, miệng nói lời huênh hoang, tâng bốc người ta để trục lợi.
Lời khuyên nhủ các tín hữu. Giáo huấn của các Tông Đồ.
17 Anh em thân mến, phần anh em hãy nhớ lại những lời các Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã nói trước kia.
18 Các ngài đã nói với anh em: "Vào thời cuối cùng sẽ có những kẻ nhạo báng, sống theo những dục vọng vô luân của mình."
19 Họ là những kẻ gây chia rẽ, sống theo tính tự nhiên, không có Thần Khí.
Nhiệm vụ của đức bác ái
20 Nhưng anh em, hỡi anh em thân mến, hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần,
21 hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời.
22 Những người do dự thì anh em phải thương xót;
23 hãy lo cứu họ, kéo họ ra khỏi lửa thiêu. Còn những người khác, thì anh em phải vừa thương xót, vừa sợ hãi, gớm ghét ngay cả chiếc áo đã bị thân xác họ làm cho ra ô uế.
Vinh tụng ca
24 Xin kính dâng Đấng có quyền phép gìn giữ anh em khỏi sa ngã và cho anh em đứng vững, tinh tuyền, trước vinh quang của Người, trong niềm hoan lạc,
25 xin kính dâng Thiên Chúa duy nhất, Đấng Cứu Độ chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, kính dâng Người vinh quang, oai phong, sức mạnh và quyền năng, trước mọi thời, bây giờ và cho đến muôn đời! A-men.
Luca (Lc)
Thứ năm 23-5-2013: Lc 1,1-80
Lời tựa
1:1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta.
1:2 Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta.
1:3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài,
1:4 mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc.
I. THỜI THƠ ẤU: ÔNG GIO-AN TẨY GIẢ VÀ ĐỨC GIÊ-SU SINH RA VÀ SỐNG ẨN DẬT
Truyền tin cho ông Da-ca-ri-a
1:5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-a, tên là Da-ca-ri-a; vợ ông là bà Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron.
1:6 Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì.
1:7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.
1:8 Chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông.
1:9 Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa,
1:10 còn toàn dân đông đảo thì cầu nguyện ở bên ngoài, trong giờ dâng hương.
1:11 Vậy một sứ thần của Chúa hiện ra với ông đứng bên phải hương án.
1:12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông.
1:13 Nhưng sứ thần bảo ông: "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an.
1:14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời.
1:15 Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần.
1:16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ.
1:17 Em sẽ đi trước mặt Người, đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ Ê-li-a, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa".
1:18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi".
1:19 Sứ thần đáp: "Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.
1:20 Và này đây, ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đãkhông tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi".
1:21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế.
1:22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
1:23 Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà.
1:24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng.
1:25 Bà tự nhủ: "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời".
Truyền tin cho Đức Ma-ri-a
1:26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,
1:27 gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
1:28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà".
1:29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
1:30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.
1:31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.
1:32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.
1:33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận".
1:34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
1:35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà,vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.
1:36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.
1:37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
1:38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Đức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét
1:39 Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.
1:40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.
1:41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần,
1:42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.
1:43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?
1:44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.
1:45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em".
Bài ca "Ngợi Khen" (Magnificat)
1:46 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
1:47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
1:48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
1:49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
1:50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
1:51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
1:52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
1:53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
1:54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
1:55 như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời".
1:56 Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Ông Gio-an Tẩy Giả ra đời, láng giềng chia vui
1:57 Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai.
1:58 Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.
Ông Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì
1:59 Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em.
1:60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: "Không, phải đặt tên cháu là Gio-an".
1:61 Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả".
1:62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì.
1:63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gio-an". Ai nấy đều bỡ ngỡ.
1:64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa.
1:65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê.
1:66 Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Và quả thật có bàn tay Chúa phù hộ em.
Bài ca "Chúc Tụng" (Benedictus)
1:67 Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
1:68 "Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.
1:69 Từ dòng dõi trung thần Đa-vít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,
1:70 như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa:
1:71 sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét;
1:72 sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên và nhớ lại lời xưa giao ước;
1:73 Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,
1:74 và cho ta chẳng còn sợ hãi,
1:75 để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người, mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
1:76 Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,
1:77 bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên.
1:78 Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
1:79 soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Ông Gio-an Tẩy Giả sống ẩn dật
1:80 Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
Thứ sáu 24-5-2013: Lc 2,1-52
Đức Giê-su ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm
2:1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
2:2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a.
2:3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.
2:4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem, miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít.
2:5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai.
2:6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.
2:7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
2:8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.
2:9 Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.
2:10 Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân:
2:11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.
2:12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
2:13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
2:14 Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
2:15 Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: "Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết".
2:16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
2:17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
2:18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.
2:19 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.
2:20 Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Đức Giê-su chịu phép cắt bì
2:21 Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng mẹ.
Tiến dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa
2:22 Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,
2:23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh,
dành cho Chúa",
2:24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non.
2:25 Và này đây, tại Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.
2:26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa.
2:27 Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người,
2:28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
Bài ca "An Bình Ra Đi" (Nunc dimittis)
2:29 Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
2:30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
2:31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
2:32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.
Ông Si-mê-on nói tiên tri
2:33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-on vừa nói về Người.
2:34 Ông Si-mê-on chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng
2:35 -còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà-, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.
Bà An-na nói tiên tri
2:36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-en, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm,
2:37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.
2:38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
Đức Giê-su tiếp tục sống ẩn dật tại Na-da-rét
2:39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê.
2:40 Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Đức Giê-su ngồi giữa các bậc thầy Do-thái
2:41 Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua.
2:42 Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ.
2:43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết.
2:44 Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường,
mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.
2:45 Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
2:46 Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi.
2:47 Ai nghe câu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu.
2:48 Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
2:49 Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?"
2:50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Đức Giê-su còn sống ẩn dật tại Na-da-rét
2:51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
2:52 Còn Đức Giê-su, ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
Thứ bảy 25-5-2013: Lc 3,1-38
II. ĐỨC GIÊ-SU CHUẨN BỊ THI HÀNH SỨ MỆNH
Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng
3:1 Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê, người em là Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-kho-nít, Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên,
3:2 Khan-na và Cai-pha làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa.
3:3 Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội,
3:4 như có lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
3:5 Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
3:6 Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
3:7 Đám đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa; ông nói với họ: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?
3:8 Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham"; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.
3:9 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa."
3:10 Đám đông hỏi ông rằng: "Chúng tôi phải làm gì đây?"
3:11 Ông trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy."
3:12 Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: "Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?"
3:13 Ông bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình."
3:14 Binh lính cũng hỏi ông: "Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?" Ông bảo họ: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình."
3:15 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gio-an: biết đâu ông chẳng là Đấng Mê-si-a.
3:16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.
3:17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi."
3:18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
Ông Gio-an Tẩy Giả bị bỏ tù
3:19 Còn tiểu vương Hê-rô-đê thì bị ông Gio-an khiển trách vì đã lấy người em dâu là bà Hê-rô-đi-a, và vì tất cả các tội ác tiểu vương đã phạm.
3:20 Ngoài ra, tiểu vương còn phạm thêm tội này là bỏ tù ông Gio-an.
Đức Giê-su chịu phép rửa
3:21 Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa; sau đó, đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra,
3:22 và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con.
Gia phả Đức Giê-su Ki-tô
3:23 Khi Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giu-se. Ông Giu-se là con ông Ê-li,
3:24 ông Ê-li con ông Mát-thát, ông Mát-thát con ông Lê-vi, ông Lê-vi con ông Man-ki, ông Man-ki con ông Gian-nai, ông Gian-nai con ông Gio-xép.
3:25 Ông Gio-xép con ông Mát-thi-thi-a, ông Mát-thi-thi-a con ông A-mốt, ông A-mốt con ông Na-khum, ông Na-khum con ông Khét-li, ông Khét-li con ông Nác-gai.
3:26 Ông Nác-gai con ông Ma-khát, ông Ma-khát con ông Mát-thi-thi-a, ông Mát-thi-thi-a con ông Sim-i, ông Sim-i con ông Gio-xếch, ông Gio-xếch con ông Gio-đa.
3:27 Ông Gio-đa con ông Gio-kha-nan, ông Gio-kha-nan con ông Rê-sa, ông Rê-sa con ông Dơ-rúp-ba-ven, ông Dơ-rúp-ba-ven con ông San-ti-ên. Ông San-ti-ên con ông Nê-ri,
3:28 ông Nê-ri con ông Man-ki, ông Man-ki con ông Át-đi, ông Át-đi con ông Co-xam, ông Co-xam con ông En-mơ-đam, ông En-mơ-đam con ông E.
3:29 Ông E con ông Giê-su, ông Giê-su con ông Ê-li-e-de, ông Ê-li-e-de con ông Gio-rim, ông Gio-rim con ông Mát-thát, ông Mát-thát con ông Lê-vi.
3:30 Ông Lê-vi con ông Si-mê-on, ông Si-mê-on con ông Giu-đa, ông Giu-đa con ông Gio-xép, ông Gio-xép con ông Gio-nam, ông Gio-nam con ông Ê-li-a-kim,
3:31 ông Ê-li-a-kim con ông Ma-li-a, ông Ma-li-a con ông Mi-na, ông Mi-na con ông Mát-thát-tha, ông Mát-thát-tha con ông Na-than, ông Na-than con ông Đa-vít.
3:32 Ông Đa-vít con ông Gie-sê. Ông Gie-sê con ông Ô-vét, ông Ô-vét con ông Bô-a, ông Bô-a con ông Xa-la, ông Xa-la con ông Nác-son.
3:33 Ông Nác-son con ông Am-mi-na-đáp, ông Am-mi-na-đáp con ông Át-min, ông Át-min con ông Ác-ni, ông Ác-ni con ông Khét-ron, ông Khét-ron con ông Pe-rét, ông Pe-rét con ông Giu-đa.
3:34 Ông Giu-đa con ông Gia-cóp, ông Gia-cóp con ông I-xa-ác, ông I-xa-ác con ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham con ông Te-rác, ông Te-rác con ông Na-kho.
3:35 Ông Na-kho con ông Xơ-rúc, ông Xơ-rúc con ông Rơ-u, ông Rơ-u con ông Phe-léc, ông Phe-léc con ông Ê-ve. Ông Ê-ve con ông Da-lác.
3:36 Ông Da-lác con ông Kê-nan, ông Kê-nan con ông Ác-pác-sát, ông Ác-pác-sát con ông Sem, ông Sem con ông Nô-ê, ông Nô-ê con ông La-méc.
3:37 Ông La-méc con ông Mơ-thu-se-lác. Ông Mơ-thu-se-lác con ông Kha-nốc, ông Kha-nốc con ông Gie-rét, ông Gie-rét con ông Ma-ha-la-lên, ông Ma-ha-la-lên con ông Kên-nan.
3:38 Ông Kên-nan con ông E-nốt, ông E-nốt con ông Sết, ông Sết con ông A-đam và ông A-đam là con Thiên Chúa.
Chúa nhật 26-5-2013: Lc 4,1-44
Đức Giê-su chịu cám dỗ
4:1 Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về, và được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa
4:2 bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả,và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói.
4:3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!"
4:4 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh".
4:5 Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ.
4:6 Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý.
4:7 Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông".
4:8 Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.
4:9 Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!
4:10 Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn.
4:11 Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá".
4:12 Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi".
4:13 Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
III. ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI MIỀN GA-LI-LÊ
Đức Giê-su bắt đầu rao giảng
4:14 Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận.
4:15 Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và được mọi người tôn vinh.
Đức Giê-su tại Na-da-rét
4:16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh.
4:17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:
4:18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,
4:19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
4:20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.
4:21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe".
4:22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?"
4:23 Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!"
4:24 Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
4:25 "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội,
4:26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đon.
4:27 Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a thôi".
4:28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.
4:29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi - họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.
4:30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám
4:31 Người xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Ga-li-lê, và ngày sa-bát, Người giảng dạy họ.
4:32 Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền.
4:33 Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng:
4:34 "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!"
4:35 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh.
4:36 Nỗi kinh ngạc trùm lên mọi người, và họ nói với nhau: "Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!"
4:37 Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng.
Đức Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Si-mon
4:38 Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-mon. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-mon đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà.
4:39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt rời khỏi bà: tức khắc bà chỗi dậy phục vụ các ngài.
Đức Giê-su chữa lành nhiều người đau yếu
4:40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ.
4:41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa!" Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.
Đức Giê-su rao giảng tại miền Giu-đê
4:42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi.
4:43 Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó".
4:44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê.