Lời Chứng

Linh mục Mc CORMICK là linh mục phó xứ của nhà thờ St. Sylvester ở Medford, New York tại Giáo phận Rockville Center.

father_mccormackNăm 1972, khi tôi ở trong không quân, đóng tại Anh Quốc, tôi cảm nhận được mạnh mẽ quyền năng của Chúa Giêsu. Tôi lớn lên ở Queen, là con lớn nhất trong năm người con của một gia đình công giáo Ái-Nhĩ-Lan. Khi còn ở tiểu học và trung học, tôi học trường Công giáo. Tôi giúp lễ, là đội trưởng của đội thể thao. Tôi cũng là một thanh niên tốt.

Khi Mỹ quốc dự vào cuộc chiến Việt-Nam, tôi cảm thấy mình phải chọn lựa. Học bổng và thể thao mà tôi tưởng thắng được thì lại qua tay người khác. Cuối cùng, tôi đành phải vào không quân năm 1969 và đổi qua làm việc ở Anh Quốc. Trong khoảng thời gian từ 1970-1973 tôi thấy mình chuyển đổi rất nhiều trong nội tâm, nhất là trong mối tương quan với Thiên Chúa. Mặc dầu tôi hoạt động tích cực trong không quân, trong chương trình CCD, và đi dự Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật nhưng tôi cảm thấy lòng mình trống vắng, thiếu thốn một điều gì.

Tôi không biết mình phải làm gì, vì thế tôi quyết định dự khóa tĩnh tâm.

Vậy một cậu bé Ái-Nhĩ-Lan người công giáo từ vùng Queens đi đâu? Hắn đi tĩnh tâm. Linh mục Simon Tugwell, O.P. đang điều động một cuộc tĩnh tâm ở Anh quốc (lúc ấy tôi không biết một tí gì về Canh Tân Đặc Sủng cả).

Tôi đi dự khóa tĩnh tâm với một bà Sơ. Khóa tĩnh tâm được tổ chức tại một trung tâm lớn và cũ kỹ tại vùng Birmingham, Anh quốc. Trong khóa hội thảo cũng có cả các bác sĩ, luật sư, giáo sư, nông dân và người lao động từ khắp nơi ở trong nước đổ về dự buổi tĩnh tâm cuối tuần ấy. Đó cũng là buổi tĩnh tâm đầu tiên của tôi mà tầm vóc của nó quá lớn so với sự hiểu biết ít ỏi của tôi.

Linh mục Tugwell giảng thuyết vào ngày thứ sáu không làm tôi thích thú gì cả. Tôi chỉ đóng vai trò thụ động. Có lẽ tôi chỉ ở đó để có chút thì giờ yên lặng với Chúa. Có lẽ đó chỉ là một cuối tuần tốt để tôi ra khỏi căn cứ không quân của tôi.

Sau buổi họp đầu tiên, chúng tôi vào cầu nguyện trong nhà nguyện lớn. Tôi đang ngồi yên lặng ngắm nhìn bà con cầu nguyện thì bỗng nhiên tôi nghe một giọng nam ở phía cuối nhà thờ vang lên to. Khi tôi quay xuống nhìn, tôi thấy anh ta giang rộng hai tay và cầu xin:

"Lạy Chúa, con xin cảm tạ Ngài vì Chúa đã ban Chúa Thánh Linh cho con và cho con được nói trong nhà thờ của Chúa.

Tôi nghĩ ngay có lẽ anh chàng này là đạo Tin lành vì người Công giáo không làm như vậy. Anh này tiếp tục cầu nguyện to đến nỗi một số người bực tức bỏ đi về. Tôi không biết làm gì cả. Tôi nghĩ anh chàng này có lẽ bị khùng hay mất trí gì đây. Khi tôi chuẩn bị đi về, tôi chợt nhận ra có một thiếu nữ ngồi gần góc tường nơi Bàn Thánh. Tôi nghĩ rằng tôi chẳng có gì phải sợ mất mát, nên tôi đành ngồi lại, nói chuyện với cô ta để hiểu câu chuyện của cô. Sau đó tôi ngồi gần đó để lần chuỗi. Khi tôi tiếp tục lần chuỗi thì có một cô gái khác đến và quỳ gần chỗ tôi, cách độ 10 bộ. Cô ta nhắm mắt, giơ hai tay lên trời rồi bắt đầu hát và cầu nguyện tiếng lạ với một cách thức mà tôi chưa hề nghe bao giờ cả.

Tới lúc đó tôi nói thầm:

"Đủ quá rồi, tôi phải ra khỏi nơi này ngay.

Tôi thấy một anh chàng ở cuối nhà thờ nói:

"Cám ơn Chúa đã cho con nói trong nhà Chúa, và bây giờ cô này lại cầu nguyện loại tiếng kỳ cục.

"Chúa ơi, đây là những hiện tượng không phải của người Công Giáo. Và tôi đứng dậy đi về.

Đêm ấy, tôi mất ngủ trọn đêm, sáng hôm sau, Linh mục Tugwell giải thích hiện tượng xảy ra ngày hôm trước tại nhà nguyện. Ngài nói:

"Nếu ai chưa hề biết gì về Phong Trào Canh Tân và Đặc Sủng thì xin vào phòng A. Nếu ai đã ở trong các nhóm cầu nguyện thì xin vào phòng B.

Đại đa số của khoảng 75 hay 80 người trong khóa tĩnh tâm đã vào phòng A.

Tôi hành động như tất cả các thiếu niên có học tại vùng Brooklyn, Queens làm, và tôi đi vào phòng B. Tôi đoán chắc là tôi sẽ đi đúng "Mõm con ngựa". Tôi ngồi trong phòng với 11 người khác. Tôi biết là mình phải cẩn thận và sẽ làm theo những gì người ta làm. Nếu họ cầu nguyện thì tôi cũng phải cầu nguyện. Nếu họ để tay lên đùi, tôi cũng làm theo họ. Nếu họ nói:

"Lạy Chúa, ngợi khen Chúa! thì tôi cũng nói:

"Lạy Chúa, ngợi khen Chúa!

Người ta giơ tay và tôi cũng giơ tay. Rồi người ta bắt đầu cầu nguyện bằng tiếng lạ, và tôi nghĩ:

"Chúa ơi, con sẽ bị lột mặt nạ rồi.

Tôi bắt đầu cầu nguyện với Chúa Cha bằng tiếng La-tinh, bởi vì đó là những câu tôi còn nhớ từ khi tôi còn là cậu bé giúp lễ. Tôi nghĩ rằng không ai biết điều tôi đang làm vì họ đều bận rộn cầu nguyện. Một thanh niên ngồi gần bàn thờ bắt đầu hát bằng tiếng lạ, tiếng hát của anh hay đến nỗi làm tôi ngẩn ngơ vì tôi chưa hề nghe giọng hát nào tuyệt vời như giọng anh. Sau đó, tôi hỏi anh ta:

"Anh có biết anh đang làm gì không?

Anh ta nói:

"Dĩ nhiên có chứ. Tôi đang cầu tiếng lạ đó.

Tôi hỏi:

"Tại sao anh có được tiếng lạ ấy ?

Anh ta đáp:

"Ồ, dễ quá, anh hãy nhờ ai đó đặt tay và cầu nguyện cho anh.

Tôi nói:

"Thật hả? Cám ơn anh nghe.

Lúc ấy, tôi rất mong muốn được như anh ta. Tôi đi tìm cha Tugwell và nói:

"Cha ơi, con muốn có người đặt tay cho con và cầu nguyện cho con. Con muốn được như những người ấy!

Thế rồi tôi quỳ xuống và Ngài đã cầu nguyện cho tôi một lời nguyện thật là hùng hồn và tốt lành. Thế là xong. Khi Ngài cầu cho tôi xong, tôi tự nghĩ:

"Tốt quá, có người cầu cho mình rồi, bây giờ mình có thể cầu nguyện tiếng lạ rồi. Mình có thể cầu nguyện cho người khác và làm tất cả những gì người ta làm.

Thế nhưng không có chuyện gì xảy ra cả. Thì giờ trôi qua. Trong sáu tháng, tôi đi đến các nhóm cầu nguyện, đinh ninh là mình sẽ giỏi hơn người khác vì có người đặt tay cầu nguyện cho mình rồi. Thật sự, tôi chết trong lòng.

Sáu tháng sau, vào mùa Thu năm 1972, một trong các nữ tu mời tôi đi dự một buổi cầu nguyện tại Oxford. Tôi đáp:

"Ồ, tôi không biết, tôi không chắc có đi dự được không nữa. Người bạn ở phòng chung với tôi là một sĩ quan cảnh sát thì nói:

"Chắc chắn rồi, hãy đi thôi.

Buổi cầu nguyện được tổ chức tại một lều tranh cũ kỹ ở ngoại ô vùng Oxford. Khi tôi bước chân vào phòng, tôi quay lại vị nữ tu và nói:

"Tôi có một cảm tưởng khác lạ, sẽ có một điều gì xảy ra tối nay. Nói vậy, nhưng tôi chỉ biết mang máng chút gì thôi.

Một số đứng phía trước, và buổi cầu nguyện bắt đầu. Tất cả mọi người cùng cầu nguyện và tôi cũng làm theo họ. Chúng tôi cầu:

"Cám ơn Chúa Giêsu, vinh danh Chúa ! và "Alleluia". Tôi chẳng đi tới đâu cả. Rồi tôi thấy mình hoàn toàn cô độc trong căn phòng đầy người. Tôi cúi đầu chồm ra phía trước, rồi khỏi ghế, tôi che tai, quên hẳn mọi người trong phòng và nói:

"Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa, Chúa ơi! Ý của con không còn quan trọng gì nữa, xin cho ý Cha thể hiện. Lạy Chúa Giêsu, con dâng cho Chúa cả cuộc đời con đây.

Đó cũng chính là lúc Chúa Giêsu đến với tôi. Tôi bắt đầu hát ca ngợi và cầu nguyện bằng tiếng lạ với cả quyền năng mà sau này những người khác còn nhắc lại. Thế là tôi đã được Thanh Tẩy trong Chúa Thánh Linh.

Khi buổi họp chấm dứt, tôi khám phá ra rằng cô gái vào trễ và quỳ bên cạnh tôi lại chính là người mà sáu tháng trước đã quỳ gối ở nhà nguyện và hát trong Ơn Chúa Thánh Linh. Tôi không biết được vì tôi nhắm mắt lại. Cô nói với tôi:

"Tôi chưa thấy ai cầu nguyện như anh trong suốt cả đời tôi.

Câu chuyện ngày càng tốt đẹp hơn. Tôi chỉ có 22 tuổi lúc ấy mà như một con người hoang dại. Tôi không biết mình phải làm gì cả. Lúc ấy chưa có những cuộc hội thảo "Đời Sống Mới trong Ơn Chúa Thánh Linh." Phong trào Canh Tân và Đặc Sủng còn mới ở Anh quốc, và tôi không biết phải làm gì.

Tôi tìm đến một vị Tuyên úy Công giáo ở trong căn cứ và hỏi xem tôi có thể giảng thuyết trong nhà thờ và chia sẻ cảm nghiệm tuyệt diệu của tôi không. Ông ta không biết phải xử sự ra sao với tôi cả, nên ông ta nói:

"Hừm, để tôi nghĩ lại xem sao ?

Ngày hôm sau, tôi đi tìm nhà thờ Baptist ở trong làng và hỏi vị mục sư nếu tôi có thể đến và giảng thuyết ở nhà thờ của ông được không. Tôi cũng đến nhà thờ Methodist, gặp vị mục sư và xin giảng thuyết ở nhà thờ ông này. Tôi còn tìm đến nhà thờ Anh Giáo. Tất cả các nơi đều đồng ý cho tôi lên bục giảng.

Tôi có cả một lịch trình để giảng thuyết. Các tín hữu của Nhà thờ Baptist, nhà thờ Methodist, và nhà thờ Anh Giáo, đều đến để nghe một cậu thanh niên Công Giáo giảng thuyết. Tôi nói với họ về tất cả quyền năng của Chúa. Cuối cùng tôi lại quay trở lại nhà thờ Công Giáo. Tôi muốn lưu ý các bạn rằng tôi không bỏ nhà thờ Công Giáo. Tôi giảng thuyết ở các nhà thờ khác sau khi tôi đã dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật. Sau cùng, vị tuyên úy Công Giáo nhìn thấy tôi hoạt động ở nhà thờ của các giáo phái khác nên rồi ông cũng để cho tôi giảng ở nhà thờ Công Giáo. Tâm hồn tôi đầy lửa mến yêu của Chúa Thánh Linh.

Mỗi cuối tuần, anh bạn chung phòng của tôi là Rich và tôi cùng đi vào các "quán" rượu và các góc phố. Anh ta chơi đàn Guitar, còn tôi thì giảng về Chúa. Rất nhiều người thay đổi, từ xấu trở nên thánh thiện. Chúng tôi rất thích thú và say mê công tác truyền đạo này. Tôi cầu nguyện cho nữ tu Catherine và bà được Thanh tẩy trong Ơn Chúa Thánh Linh. Tôi cầu cho nữ tu Mary, bà cũng được Ơn Chúa Thánh Linh.

Có khoảng 20 người được Thanh Tẩy trong Ơn Thánh Linh khi tôi nói về Thiên Chúa và những việc Ngài làm trong đời tôi. Thật giống y như Giáo Hội thuở xa xưa, tràn đầy ơn lành và vinh quang của Chúa.

Năm 1973, tôi được giải ngũ, tôi trở về gia nhập nhóm cầu nguyện tại đại học Fordham. Mẹ tôi nghĩ rằng tôi bị tẩy não tại Anh Quốc, ba tôi thì không biết nghĩ điều gì. Còn bạn bè tôi nghĩ rằng tôi mất trí. Mùa hè năm 1973 là một mùa tràn đầy Ơn Thánh Linh với ngọn lửa mến yêu của Ngài.

Vào mùa Thu năm 1973, tôi học một mùa lục cá nguyệt tại đại học Don Bosco ở New Jersey và sau đó tốt nghiệp về Thần học. Trong thời gian ấy, tôi rất tích cực hoạt động ở trong các nhóm cầu nguyện Thánh Linh, rồi dần dà trở thành người lãnh đạo. Cuộc đời tôi bắt đầu đổi khác.

Từ đó, tôi làm việc với các cụ già và loan truyền Tin Mừng của Chúa Thánh Linh cho họ, tôi dần dần cảm nghiệm rằng Chúa đang gọi tôi đi làm Linh mục. Nghĩ đến việc đó, tôi đâm ra sợ hãi, nhưng tôi biết Chúa đang gọi tôi và có chương trình cho tôi.

Một năm trước khi tôi vào Chủng viện, tôi thực tập trong một đội giảng thuyết cho Liên Giáo phận New York. Sau năm đó, tôi vào Chủng viện ở Long Island.

Tôi được truyền chức vào tháng năm 1981 và lập một nhóm cầu nguyện tại Giáo xứ của tôi vào mùa Thu 1981. Nhóm có từ 100-150 người vào những tháng đầu, khi người ta đến tìm hiểu thêm về vị Linh mục trẻ tuổi. Sau 5 năm, chúng tôi còn 70-100 người, tùy theo từng thời gian trong năm.

Một trong những đặc sủng quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho tôi là Đặc Sủng Chữa Lành. Đó cũng chính là một phần trong mục vụ của tôi. Tôi thường đến cử hành Thánh lễ chữa lành cho một số giáo dân lân cận với số người tham dự từ 500-600 người. Đời sống người ta được đổi mới, chữa lành và sung mãn. Tôi muốn chia sẻ với quý vị về những ơn chữa lành Chúa ban mà tôi đã chứng kiến:

Một bà đã bước đi ra khỏi xe lăn, mù mắt mà được sáng, xương gãy được lành, khỏi bệnh ung thư. Có rất nhiều người được chữa lành ngay lập tức. Niềm vui lớn là có những người trở lại đi dự lễ sau 35 năm hay 40 năm bỏ đạo. Những ơn chữa lành nhiều đến nỗi kể không hết được. Những tình cảm giữa người và người trong các gia đình được chữa lành, ngay khi đang tổ chức Thánh lễ. Trong một vài trường hợp, khi cử hành Thánh lễ, tôi mời mọi người đến gần Bàn Thánh và Chúa Giêsu tiếp tục hoạt động trong cộng đồng dân Chúa.

Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài ban ơn cho mục vụ Linh mục của tôi. Tôi có thể làm chứng cho một chân lý trong Phúc Âm, qua Gioan 14:2 "Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm."

Tôi cảm tạ Thiên Chúa về những điều Ngài làm cho tôi. Ngài đã cứu tôi ra khỏi vực thẳm của thế gian. Tôi cảm tạ Ngài vì tôi có thể làm chứng cho Ngài.

Tôi cũng được Ngài chúc phúc để sinh hoạt Canh Tân Đặc Sủng trong giáo xứ. Tôi cũng hoạt động trong các khóa tĩnh tâm ở Mastic Beach, New York với các buổi học giáo lý, những ngày cầu nguyện và những buổi tĩnh tâm qua đêm.

Tôi là một cậu bé nghịch ngợm từ vùng Queens nhưng lại khát khao một đời sống mới trong Chúa. Ngài biến đổi đầu óc và tâm hồn tôi. Ngài cũng soi sáng cho tôi để tôi nhận biết tội lỗi của mình, và nhu cầu cần thiết của tôi là dựa vào Ngài. Mục vụ linh mục của tôi tiếp tục lớn mạnh. Đời sống tôi tiếp tục thay đổi.