Bà Là Ai?

BÀ LÀ AI ?

CHỨNG TỪ TRUNG THỰC VÀ ĐẦY XÚC ĐỘNG
CỦA MỘT KÝ GIẢ TIN LÀNH VỀ ĐỨC MẸ

Chuyển ngữ từ cuốn “MEDJUGORJE, THE MESSAGE” của Wayne Weible
Paraclete Press, Orleans, Massachussets, 22nd Printing, 1996.

[BBTMạng lưới Khơi Nguồn (Khoi-Nguon.com) xin chân thành cám ơn Linh mục Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR đã dịch ra tiếng Việt và cho phép chúng con được đăng lên mạng cho mọi người được hưởng ân huệ của Chúa. Xin Chúa trả công bội hậu cho cha.


“Mẹ muốn dẫn tất cả các con đến sự thánh thiện trọn hảo...”

Chương 23

TIẾP TỤC HỌC HỎI

 
Cha Svet đậu xe ở trong sân, phía sau nhà thờ Thánh Giacôbê, còn tôi đậu càng gần Nhà Xứ càng tốt, vì hôm nay là ngày cuối cùng của tôi tại Mễ Du. Khi tôi ra khỏi xe, ngài bảo: “Chúng ta sẽ dùng bữa trưa tại Nhà Xứ trước đã, rồi đến nhà Marija.” 
 
Cùng ăn trưa với chúng tôi có một linh mục trẻ trầm lặng, mới đến Mễ Du được vài tháng, tên là Nicholas. Ông nóng lòng muốn kể cho cha Svet về một việc gì đó vừa xảy ra, và khi ông bắt đầu kể bằng tiếng Croát, cha Svet đưa tay ngăn lại, rồi quay sang tôi: “Có lẽ anh nên lấy sổ tay ghi lại chuyện này, có vẻ hữu ích cho quyển sách của anh đó. Tôi sẽ thông dịch cho anh.” Tôi làm theo lời ngài và bắt đầu viết lia lịa, trong khi cha Nicholas kể chuyện bà Mira (không phải tên thật), một phụ nữ khoảng 30 tuổi, sống ở một ngôi làng nhỏ thuộc miền Bắc Nam Tư. 
 
Mira sinh trưởng trong một gia đình Công giáo đạo đức, nhưng vì yêu một thanh niên đảng viên Cộng sản, cô lìa bỏ Giáo Hội. Vị linh hướng của cô cảnh báo với cô là con đường cô đang hướng tới sẽ gây đau khổ cho chính bản thân cô và cho gia đình cô, nhưng cô không nghe, và cô đã kết hôn. Vì chồng cô là một đảng viên, nên Mira thấy không thể tiếp tục đi lễ được. 
 
Như linh mục tiên đoán, Mira sống tách biệt với gia đình, ngay cả khi cô sinh đứa con đầu lòng - một bé trai tàn tật vì chứng teo cơ. Trong năm năm sau đó, thảm kịch này cộng với những áp lực ngày càng tăng của cuộc sống, khiến cô rất sợ hãi. Cô bị chứng trầm uất nghiêm trọng và phải dùng thuốc với liều lượng ngày càng nặng hơn, cho đến khi phát triển thành bệnh động kinh. Tháng 9 năm 1986, người nhà đưa cô vào bệnh viện Zagreb, tại đây, cô lên cơn động kinh ít nhất 30 lần một ngày. 
 
Trong vòng 17 ngày, các bác sĩ đã dùng mọi phương pháp để trị liệu, nhưng đều vô hiệu. Tình trạng của cô ngày một xấu đi, và có lẽ do hậu quả sự trị liệu bằng các loại thuốc mạnh lúc đầu nên cô bị mù. Cuối cùng, bác sĩ nói với chồng cô là họ không thể làm gì được nữa, tốt hơn anh nên đưa vợ về nhà, vì cô ấy sắp chết. 
 
Một bức màn tang tóc bao phủ trên gia đình cô suốt hai tuần sau đó, khi Mira nằm liệt trên giường và cả hai chờ đợi điều không tránh khỏi. Nhưng trong thời gian này, có một điều lạ thường xảy ra: Mira nghe một tiếng nói: “Con phải quay về với Thiên Chúa và cầu nguyện.” 
 
Kết luận rằng cô bị mê sảng vì bệnh và vì thuốc, chồng cô cố gắng an ủi. Nhưng cô vẫn khăng khăng quả quyết tiếng nói bảo cô phải đi ra ngoài. Đến đây, chồng cô không để cô làm theo ý mình. Các bác sĩ đã buộc cô phải nằm một chỗ, và vì sợ mọi cử động có thể làm cô mau chết, anh liền canh giữ để cô khỏi di chuyển. 
 
Nhưng cũng có lúc anh phải ra khỏi nhà, và ngay lập tức, Mira cố lết ra khỏi giường. Từ từ, cô lần ra được đến cửa trước. Vừa mới mở cửa và bước ra ngoài, cô liền thấy thị kiến: Đức Trinh Nữ Maria Hồng Phúc hiện ra với cô và nói: “Con có thể được chữa lành.” 
 
Mira quỳ sụp xuống than khóc: “Lạy Mẹ Hồng Phúc, xin Mẹ chữa lành con của con; nó mới có năm tuổi.” 
 
- “Con của con không có trách nhiệm gì về hoạn nạn nó đang chịu, nhưng đau khổ của nó sẽ là ơn cứu rỗi và cải hối cho nhiều người. Đừng cầu xin cho nó, nhưng hãy cầu xin cho chính mình con. Hãy đến Mễ Du và con sẽ được chữa lành.” 
 
Chỉ có thế. Mira lại mù, không thấy gì nữa. Cô bò trở vào nhà, lết tới phòng ngủ. Khi chồng cô về đến nhà, cô kể lại cho anh nghe hết mọi chuyện vừa xảy ra, nhưng anh không tin. Thực ra, anh buồn vì tình trạng mê sảng của cô xem ra xấu hơn. Cô năn nỉ chồng đưa mình đến Mễ Du, nhưng anh bảo không khi nào có chuyện đó. 
 
Đức Maria lại hiện đến với cô lần nữa tại giường. Mira kêu khóc: “Lạy Đức Mẹ, chồng con không chịu đưa con đi Mễ Du!” 
 
- “Con có biết ai trong làng này có thể cầu nguyện cho con không?” 
 
Người phụ nữ trả lời: “Thưa không, tất cả đều đã quay lưng lại với Thiên Chúa.” 
 
- “Ta cũng không biết ai. Hãy đến Mễ Du!” 
 
Nói xong, Người liền biến đi. Mira như bị ám ảnh, không thể nói đến điều gì khác ngoài việc đi Mễ Du. Trong cơn tuyệt vọng, chồng cô định đưa cô đến bệnh viện Zagreb cầu cứu. Biết được, cô liền lên cơn cuồng loạn. Cuối cùng, để cho cô bình tĩnh lại, anh đồng ý đưa cô đi Mễ Du. Ngày 8 tháng 11, họ đi xe lửa đến Mostar và ngày 9 tháng 11, họ đến Mễ Du. (Tôi nhận ra là cùng ngày với tôi). 
 
Chồng cô đưa cô thẳng tới nhà thờ. Khi đã vào bên trong, anh để ý thấy tình trạng của cô khá hơn so với các tháng trước; lạ hơn nữa là suốt lộ trình từ Mostar đến Mễ Du, cô chỉ bị một hai cơn động kinh thôi. 
 
Nhà thờ lúc ấy vắng người, chồng cô dìu cô lên hàng ghế đầu phía bên phải (Khi nghe đến đây, tôi liền nhớ có thấy cô quỳ ở đấy khi tôi bước vào hôm Chúa nhật vừa rồi). Cả buổi chiều, Mira cầu nguyện, và bỗng nhiên, sau một tiếng đồng hồ, cô thấy thôi thúc phải ngước nhìn lên. Cô làm theo và kinh ngạc vì mắt cô trông thấy bức tượng Đức Trinh Nữ Maria ở trước mặt. Cô đã được sáng mắt lại. 
 
Chồng cô nhìn vợ sửng sốt. Cô đứng dậy đi ra ngoài nhà thờ, và gặp một linh mục khách ở xa đến đây để giúp giải tội. Cô xưng thú tội lỗi rất lâu và rất cảm động, rồi trình bày cho ngài nghe điều vừa xảy ra. Linh mục khuyên cô nên trở lại bên trong nhà thờ tiếp tục cầu nguyện, và hôm sau nên đi tìm một linh mục địa phương để kể hết cho ngài. 
 
Nhưng ngày hôm sau, khi cô đi tìm một linh mục bản xứ tại Mễ Du, thì các ngài đều ra ngoài có việc hết. Cuối cùng, đến sáng thứ ba, cô mới kể cho cha Pervan và Nicholas nghe câu chuyện của cô. Thị giác của cô rất tốt và đã hơn 24 giờ qua, cô không hề bị một cơn động kinh nhỏ nào. Cô tin là mình đã được hoàn toàn chữa lành. Cô trở về nhà, hết lòng thống hối ăn năn và cả chồng cô cũng vậy. 
 
Đây là một câu chuyện rất hấp dẫn. Và điều gây kinh ngạc nhất cho tôi là sự đau khổ của con cô có sức cứu độ nhiều người khác. Biết bao người đã thắc mắc tại sao có nhiều đau khổ trên thế gian. Đây là một trường hợp được nối kết trực tiếp vào sự đau khổ của Đức Kitô, Đấng đã chịu một cái chết thảm khốc để chúng ta được tha tội và giải hòa với Thiên Chúa. Linh mục Phan Sinh trẻ tuổi ấy đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện trích thẳng từ bản Nhật ký của Nhà thờ Thánh Giacôbê, chính xác từng chi tiết như đã được ghi chép. Thật chẳng khác gì được nghe một dụ ngôn mới của sách Tin Mừng. 
 
Chúng tôi cám ơn cha Nicholas rồi đi tới nhà Marija; và vì trời nắng tốt, nên chúng tôi chọn đường mòn băng qua những cánh đồng hơn là đi xe hơi. Tuy mất thêm 20 phút, nhưng sau câu chuyện của Mira, thời gian mất thêm ấy lại được chúng tôi đón nhận như những giây phút dành cho sự ngẫm nghĩ riêng tư.  
Marija đang đợi chúng tôi ở bậc cấp trên cùng dẫn vào cửa trước nhà cô, và một lần nữa, cô chào tôi rất nồng nhiệt. Thật thú vị được nhìn thấy cô cùng cha Svet ở đấy. Cô rất kính phục cha, nhưng cũng rất thân mật, một điều dễ nhận thấy khi cô lơ đãng nhặt một sợi chỉ dính ở cánh tay áo dòng của cha trong khi nói chuyện. Tôi nhìn cô khi họ trò chuyện bằng tiếng Croát, trao đổi những tin tức, và một lần nữa, tôi thầm nghĩ cô ấy đẹp biết bao! Nhưng không theo nghĩa thường tình; có một vẻ đẹp thiêng liêng toát ra từ con người cô, - một vẻ đẹp tương tự lộ ra trong phong thái của Mẹ Têrêxa. 
 
Cha Svet chuyển sang tiếng Anh: “Nào, bây giờ chúng ta làm việc. Tại sao anh không kể chuyện của anh cho Marija nghe? Cô ấy hiểu được một ít tiếng Anh, nhưng tôi sẽ lặp lại bằng tiếng Croát.” 
 
Trong hai mươi phút kế tiếp, tôi kể cho cô ấy nghe những biến cố của đời tôi trong năm vừa qua. Tôi cố cho cô hiểu tôi không kiếm tìm chuyện gì đặc biệt - thế nhưng suốt thời gian ấy, tôi cứ ước ao chớ gì nói ra được câu này: “Marija, xin cô vui lòng hỏi Đức Mẹ, để tôi được biết tôi có đang thi hành đúng điều Người yêu cầu không.” Cũng như bao người hành hương khác, tôi thầm mong muốn có một dấu chỉ đặc biệt, hoặc có thể trong giây lát được thấy Đức Mẹ như các thị nhân đã thấy. Trong thâm tâm, tôi biết như vậy là vị kỷ và chú tâm vào điều không đúng. Nhưng dù sao, mong ước ấy vẫn có đó. Một cách nào đấy, do cảm xúc mãnh liệt của tôi qua cái nhìn của tôi vào mắt cô, trong lúc cha Svet đang thông dịch, Marija hầu như thấu hiểu được lòng tôi. Cô gật đầu mỉm cười, và nói bằng tiếng Anh: “Vâng, tôi hiểu.” Đến đây, chúng tôi nghỉ một lát, cô đứng lên pha cà phê và dọn ra mấy ổ bánh mì cho chúng tôi. Cô nhìn tôi mỉm cười nói: “Milka đã làm mấy cái này trước khi qua Đức.” 
 
Đột nhiên, tôi ý thức được một điều bất thường: lúc ấy không có một đám khách hành hương nào xếp hàng ngoài đường đợi gặp Marija, không một nhóm thanh niên người Ý nào lảng vảng bên trong sân, không một hướng dẫn viên du lịch nào chen vào đòi hỏi cô điều này điều nọ - không có bất cứ một thứ gì làm phân tâm cả. Không thể tin được - như thể Chúa đã cắt riêng cái mảnh thời gian này ra dành cho chúng tôi. 
 
Nhưng bây giờ đã đến khúc khó khăn; tôi phải kể cho cô ấy nghe về những gì đã xảy ra cho tôi tại Konjic hai ngày trước đây. Cô sẽ nghĩ gì? “Marija, tôi cần phải nói với cô về Milka.” 
- “Milka hả?” Marija hỏi, không chờ thông dịch. “Chuyện gì về Milka?” 
 
Tôi kể cho cô nghe về việc tôi đã nhận được sứ điệp như thế nào và thêm rằng: như tôi đã nghĩ sau đó, chuyến đi này của Milka có thể kéo dài ít nhất ba tháng. Và tôi kết luận cách lơ mơ, có lẽ là để cho Milka học tiếng Anh. Hiện nay mới có một ít người Mỹ đến Mễ Du, nhưng tôi có thể tiên đoán - à không - có thể biết được là sắp đến thời mà đa số khách hàng hương là người từ Hoa Kỳ tới. 
 
Marija nhìn tôi một lúc lâu, không nói tiếng nào. Rồi cô mỉm cười, và qua cha Svet thông dịch, cô nói: “Tôi không thể nói giùm cho Milka. Tôi thấy không có vấn đề gì về việc em ấy sang Hoa Kỳ... Nhưng ông phải đích thân hỏi em ấy.” 
 
- “Bằng cách nào? Cô ấy đang ở bên Đức mà.” 
 
Marija đi tới một hộc tủ và lấy ra bút mực, rồi nói: “Đây, ông viết thư cho Milka và để lại đây. Tháng giêng, Milka về, tôi sẽ trao lại. Lúc đó ông có thể điện thoại hoặc biên thư cho em ấy.” Cô nhún vai: “Ta sẽ có câu trả lời.” 
 
Được khuyến khích, tôi hỏi thêm: “Cô nghĩ thế nào về chuyện này?” 
 
Cô suy nghĩ một lúc mới trả lời: “Nếu ông cho sứ điệp ông đã nhận là do Đức Mẹ, thì ông nên tuân theo lời Người yêu cầu.” 
 
Tôi thấy là cô không muốn can dự, nhưng cũng thấy đây không phải là lúc đeo đuổi hỏi thêm. Tôi đã làm những gì có thể, bây giờ thì xin trao mọi sự trong tay Chúa. Khi ra về, Marija một lần nữa bảo tôi bằng tiếng Anh là tôi có thể trở lại đây bất cứ lúc nào, và thêm: “Xin Chúa chúc lành cho ông.” 
 
Tiếp theo đó, cha Svet đưa tôi đi Mostar, nơi ngài muốn tôi gặp và phỏng vấn Ivanka. Cô đi vắng, nhưng có ba cô ở nhà, và chúng tôi nói chuyện với ông ấy. Cha Svet có cho tôi biết trước là vợ ông đã mất ít lâu trước khi biến cố Mễ Du xảy ra, và tôi tự dặn mình không nên hỏi câu nào có thể gợi lên kỷ niệm đau buồn ấy. Hỏi về đời sống của ông, tôi được biết ông đã có nhiều năm lao động tại nước Đức. Ông có một căn nhà tại Mễ Du, và căn này tại Mostar. 
 
Ông cảm thấy thế nào khi có một con gái là thị nhân? Ông do dự, đắn đo từng lời: “Tôi thấy đây là một ơn phúc lớn lao cho gia đình tôi. Việc con gái tôi được tham dự vào biến cố đã ảnh hưởng sâu xa trên cả gia đình - trên em gái nó, trên họ hàng và mọi người. Nhưng cũng có những hậu quả xấu - quá nhiều người lui tới, quá nhiều câu hỏi, quá nhiều nhà báo...” Đoạn ông mỉm cười, có ý cho tôi biết ông không ám chỉ tôi, nhưng tôi quyết định dành những câu hỏi khác cho con gái ông. 
 
Trong lúc chờ đợi, ông mời chúng tôi uống cà phê. Và sau khi đã uống cạn năm tách, Ivanka bước vào với cô em. Ngay khi trông thấy cha Svet, cô chạy lại ôm hôn ngài. Rồi, nhìn thấy tôi với cuốn sổ trong tay, cô bắt đầu một tràng tiếng Croát với cha Svet. Tôi không cần được phiên dịch mới hiểu ra rằng đây không phải là một cuộc tiếp đón vui vẻ. Cha Svet trả lời bằng tiếng Croát và tôi cũng lại chẳng khó khăn gì để đoán ra ngài đang nói gì, khi lắc đầu và liên tục nói: “Không, không.” 
 
Nhưng thay vì bình tĩnh lại, cô càng bực tức thêm, và bây giờ cô đang đi qua đi lại, giơ hai tay lên trời. Thấy mình đến không phải lúc, tôi khẽ thúc cùi chỏ vào cha Svet, lắc đầu ra dấu về phía cửa. Tôi chỉ muốn rút lui - một cách lịch sự nếu có thể, nhưng chắc chắn là càng nhanh càng tốt. 
 
Nhưng cha Svet cứ lờ đi, và tiếp tục nói với cô ấy, giọng bình tĩnh nhưng kiên quyết. Cô vẫn không có vẻ nguôi tức bực, và cuối cùng, tôi không chịu được nữa. Tôi nói nhỏ với cha: “Cha nghe tôi nói đây, tôi thật sự không muốn gây rắc rối ở đây. Nếu cô ấy không muốn nói chuyện, thì thôi cũng được, mình đi về.” Tôi đứng dậy bước đi. 
 
- “Không”, cha nhẹ nhàng bảo và đẩy tôi ngồi xuống ghế: “Hãy kiên nhẫn!” 
 
Rồi ngài lại nói thêm với cô, từng lúc chỉ trỏ về phía tôi, và tôi rất ngạc nhiên thấy cô bỗng nhiên ngồi xuống. Cha Svet nói: “Xong rồi, ổn cả rồi!” Ivanka, tuy còn căng thẳng và xa lạ, cũng gật đầu và mỉm cười với tôi khi ngài đang nói. Cha Svet giải thích là Ivanka đang bực mình với đoàn quay phim đài BBC mà cô và Mirjana đã nghe lời cha để cho họ phỏng vấn, nhất là về những câu hỏi riêng tư đặt ra với cô. Thực ra, Ivanka không thích vai trò công khai mà cuộc sống của một thị nhân đòi hỏi. Cô vẫn còn buồn vì không còn được diện kiến Đức Mẹ hằng ngày với các bạn nữa. Tôi đã nhìn thấy điều đó, hôm kỷ niệm năm thứ năm Đức Maria hiện ra, khi cô ngồi trên thảm cỏ với các bạn. Trong khoảnh khắc Đức Maria hiện ra, tôi để ý thấy cô cúi đầu với một vẻ buồn bã dễ nhận ra. Điều này, cộng với nhiều cuộc phỏng vấn - vốn đã được cho xuất hiện trên báo chí hoặc phim ảnh một cách không trung thực như những câu trả lời của cô - đã khiến cha Svet mất thời gian trấn an cô rằng quan điểm của tôi sẽ là thiện cảm. 
 
Để xác định điều đó, tôi thuật cho cô câu chuyện của chính tôi, như tôi mới vừa kể cho Marija chiều hôm đó, kết luận rằng tôi đến đây với tư cách một người hành hương hơn là một nhà báo. Cô cười to, đưa tay ra, và tôi vui vẻ nắm lấy. 
 
Tôi hỏi cô một số câu hỏi chung chung về cuộc sống, cô ở đâu và sắp đi đâu, và tôi nhấn mạnh rằng tôi đến đây không phải để viết một “bản tường trình các sự kiện”. Tôi nói: “Tôi muốn tìm biết cá tính của cô, với tư cách một con người, cô đã cảm thấy gì vào lúc ấy - và bây giờ? Và vai trò thị nhân đã dẫn cô đến đâu?” 
 
Cô đã thật sự cởi mở sau đó, trò chuyện thoải mái, và cho nhiều chi tiết hơn tôi mong muốn. Sau đó, cô mang ra một cuốn album ảnh cho tôi xem. Tôi để ý có một ảnh chụp cách đây vài năm, lúc Ivanka còn để tóc ngắn. Bây giờ tóc cô đã dài trở lại, qua cha Svet, tôi nói: “Tôi thích cô để tóc dài hơn. Như thế mới có vẻ cô không thay đổi chút nào, mặc dù những gì đã xảy ra. Cô vẫn y như thế, dù đã 21 tuổi rồi.” 
 
Từ đó, cô tươi hẳn lên, rồi bắt đầu nói chuyện về đám cưới sắp tới của cô, một chuyện xem ra hãy còn giữ bí mật - trừ ra một số bạn thì biết, tức là tất cả Mễ Du đều đã biết. Tôi mỉm cười nói: “Thôi, tôi sẽ không hỏi cô câu hỏi ai cũng đặt ra (bao giờ làm đám cưới?). Tôi chỉ nói tôi rất mừng cho cô, và tôi nghĩ đó là việc rất tốt.” 
 
Đây đúng là một cuộc trò chyện hơn là một buổi phỏng vấn, khi chúng tôi tiếp tục nói chuyện với nhau về Mễ Du. Và rồi tôi hỏi: “Các bạn sẽ sống ở đây sau đám cưới - ở ngay Mostar này?” 
 
Cô đáp: “Không, chúng tôi muốn trở về Mễ Du”, và tôi cảm thấy cô có vẻ hơi lo lắng về việc này. Rồi cô nói tiếp: “Tôi không biết làm sao nữa.” Khi nói, cô cứ nhìn thẳng vào tôi. Chúng tôi nói chuyện kiểu mắt-đối-mắt, mặc dù cha Svet đang thông dịch. Và một lần nữa, cũng như đối với Marija, tôi không còn là một nhà báo, tôi là một người bạn. 
 
Bỗng nhiên cô hỏi tôi: “Ông có nghĩ tôi sẽ có thể trở về Mễ Du và sống một cuộc sống hạnh phúc, yên tĩnh với chồng tôi không?” 
 
Tôi buồn bã nhìn cô và lắc đầu: “Không đâu Ivanka, tôi không nghĩ cô sẽ được ở yên. Người ta sẽ không để cô yên. Họ còn muốn tiếp tục đến với cô, và cuộc sống của cô sẽ bị phiền toái hơn nữa, bởi vì cô đã có gia đình.” 
 
Đôi tay cô nắm chặt lại: “Tôi không biết phải làm sao!” 
 
Tôi xích lại gần và đặt bàn tay lên cánh tay cô nói: “Suốt những năm qua, cô đã phó thác cho Đức Mẹ hướng dẫn cô. Đức Mẹ đã đến với cô, ban cho cô ơn gọi này, và đã hướng dẫn cô theo đường lối này. Người đã chúc lành cho đời sống hôn nhân sắp tới của cô, tuy trước đó Người đã đề nghị cô một đời sống tu trì. Nhưng khi cô nói muốn chọn cuộc sống hôn nhân, thì Người bảo tùy cô định đoạt, và Người đã chúc lành cho việc cô đang làm!” Ngưng một lát, tôi tiếp: “Ivanka ạ, Đức Mẹ sẽ tiếp tục chăm sóc cô!”

Ivanka trong một buổi diện kiến 
Đức Maria. Phía sau là Lm 
René Laurentin, một thần học gia 
nổi tiếng, đang chăm chú khảo sát…


Nét mặt cô lúc ấy trông rất tức cười, như thể muốn nói: Phải, phải, ông nói đúng! Và đột nhiên, tôi hoảng hốt tự hỏi: Tôi nghĩ mình là ai mà lại dám ngồi đây, nói với một thị nhân đã từng nhiều năm được diện kiến Đức Maria hằng ngày, rằng mọi sự sẽ êm xuôi?  Nhưng tôi đã tuôn ra như vậy vì ý thức về nỗi lo âu của cô. 
 
Ngay lập tức, chúng tôi nhìn nhau và phá lên cười, vì cùng một lúc kinh ngạc về một hoàn cảnh khó có thể xảy ra như vậy lại đã xảy ra. 
 
Tôi quay sang cha Svet và nói: “Tôi không biết mình đang làm gì, khi bảo cô ấy những thứ đó.” 
 
Cha chỉ cười và nói: “Tốt thôi, cô ấy đã được tiền định phải nghe những lời anh nói đấy.” 
 
Sau đó, chúng tôi trở thành bạn thân, tán gẫu không ngớt, cho đến lúc cha Svet nhắc tôi là họ chưa ăn tối. Thế là chúng tôi chia tay, khi Ivanka hôn chào tôi, tôi nói: “Hẹn gặp lại ở Mễ Du.” 
 
Vẫy tay chào tạm biệt, Ivanka nói: “Dạ, như vậy tốt lắm!” Giã biệt cha Svet còn khó hơn nữa. Chúng tôi tìm được một nhà hàng yên tĩnh ở một trong những khách sạn tại Mostar, và có một bữa ăn tối với cuộc chuyện trò tuyệt vời. Khi chúng tôi chia tay nhau thì đã nửa đêm. Điều an ủi duy nhất cho tôi là bây giờ tôi biết mình sẽ trở lại - không phải chỉ một lần. 
 

---o0o---

Trở Lên Trên