Hộ Giáo
Bài viết của Joel Peters - Phạm Bảo chuyển ngữ

Phần V

16. Cá nhân người tín hữu không thể kiếm được Sách Kinh Thánh cho đến thế kỷ thứ 15. 
 
Điều có tính chất cốt yếu đối với học thuyết Duy Kinh Thánh là ý niệm Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho từng tín hữu cũng như soi sáng cho việc giải thích đúng đắn đoạn văn Kinh Thánh nhất định. Ý niệm này phỏng đoán trước là từng tín hữu đều có được Sách Kinh Thánh hay chí ít là được tiếp xúc với Kinh Thánh. Điều khó khăn theo sự định đoán như vậy là việc Kinh Thánh đã chưa thể được sản xuất hàng loạt và cá nhân người tín hữu không thể tìm được Kinh Thánh cho mình, cho đến khi có mặt chiếc máy in trong thế kỷ thứ 15 (34). Ngay sau đó cũng phải mất khá nhiều thời gian mới có nhiều số lượng lớn sách Kinh Thánh được in ấn và phổ biến rộng rãi ra cho mọi người. 
 
Người ta có thể thấy được tình huống sự vụ nói trên đã gây ra một tình thế khó khăn là toàn bộ hàng triệu Kitô hữu sống trước thế kỷ thứ 15 đã không được thừa tự một tài liệu khả tín cuối cùng nào, mà lại bị phó mặc cho sự lúng túng về mặt tâm linh, trừ phi họ có cơ hội được tiếp xúc với một bản sao Kinh Thánh chép tay. Thậm chí sự hiểu biết nông cạn của con người về các hoàn cảnh như thế đã khiến Thiên Chúa hóa ra là khá tàn nhẫn, bởi Người đã mạc khải sự sung mãn của Lời Người cho nhân loại qua Đức Kitô, trong khi Người lại biết rằng cái phương tiện mà nhờ vào nó mà có thể sẵn sàng tạo ra khả năng cho sự thông đạt Lời Chúa thì lại không tồn tại qua các thế kỷ khác với thế kỷ 15. 
 
Nói một cách khác, chúng ta đều biết rằng Thiên Chúa hoàn toàn không nhẫn tâm, mà trong sự việc đó có một tình yêu vô biên dành cho chúng ta. Chính vì lý do đó mà Người không bỏ mặc chúng ta trong tăm tối. Người đã sai Con của Người đến để giáo huấn cho chúng ta con đường phải tin và đường lối phải hành động, và chính Người Con này đã thiết lập Giáo Hội để xúc tiến các việc dạy dỗ cho cả người thông tuệ lẫn người thất học. “Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô.” (Rm 10,17). Đức Kitô cũng ban cho Giáo Hội sự bảo đảm là Người sẽ luôn ở cùng Giáo Hội và không để Giáo Hội mắc phải sai lầm. Vì thế, Thiên Chúa không bỏ mặc dân Người và không khiến dân Người cần phải dựa vào sự phát minh ra máy in sẽ trở nên một phương tiện nhờ đó mà nhận biết được công cuộc cứu độ của Con Thiên Chúa. Thay vì thế, Người ban cho chúng ta một vị tôn sư không thể lầm lẫn, được thiết lập một cách thiêng liêng, đó là Giáo Hội Công Giáo, để cung cấp cho chúng ta phương tiện hiểu biết được Tin Mừng trong Sách Phúc Âm – và được hiểu biết một cách đúng đắn. 
 
17. Học thuyết Duy Kinh Thánh không tồn tại trước khi đến thế kỷ thứ 14. 
 
Như một thực tại khó khăn mà một số người có thể phải đối mặt, học thuyết nền tảng trong giáo thuyết của đạo Tin Lành không bắt nguồn từ trước thế kỷ thứ 14 cũng như không được phổ biến rộng rãi trước thế kỷ thứ 16 – là một học thuyết mà sự khôn ngoan thông thái theo thời gian có một khoảng cách xa, rất xa với các bài giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô và các Thánh Tông Đồ. Sự việc này bị người Tin Lành dễ phớt lờ hay không thèm để ý đến, nhưng nó lại có thể đứng một mình như là một nguyên lý đủ để loại bỏ học thuyết Duy Kinh Thánh. Sự thật là học thuyết Duy Kinh Thánh không tồn tại trước thời John Wycliffe (là người tiền bối của giáo thuyết Tin Lành) trong thế kỷ thứ 14 và không được phổ biến rộng rãi cho đến thời Martin Luther đã xúc tiến trong thế kỷ thứ 16 và bắt đầu đưa ra ý tưởng “truyền thống của con người” của mình, nhằm thay thế huấn quyền của Giáo Hội Công Giáo. Bởi vậy, học thuyết Duy Kinh Thánh không những thiếu tính chất liên tục lịch sử mang đậm nét huấn giáo chính thống của các Thánh Tông Đồ (Tông Truyền), mà nó còn thực sự làm đại diện cho một sự thay đổi đột ngột, một sự đứt đoạn quyết liệt với quá khứ Công Giáo.   
 
Người Tin Lành sẽ quả quyết rằng tự bản thân Kinh Thánh giảng dạy ý niệm Duy Kinh Thánh và vì thế học thuyết có cội rễ bám ngược trở lại với Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy ở phần trên, Kinh Thánh không giảng dạy những điều như thế. Tuyên bố rằng Kinh Thánh giảng dạy học thuyết này thì không có gì hơn là một cố gắng được lập lại để đưa ngược đức tin đi lùi vào những trang Kinh Thánh. Khảo sát về tính chất lịch sử liên tục (hay thiếu tính chất lịch sử liên tục) đều đưa đến một chỉ định : liệu một niềm tin đặc biệt có bắt nguồn từ Đức Giêsu Kitô và các Thánh Tông Đồ hay không, hoặc là, nó đã xuất hiện ở nơi nào đó vào đúng lúc khá trễ hơn. Sự thật là ghi nhận của lịch sử hoàn toàn im lặng về học thuyết Duy Kinh Thánh trước khi đến thế kỷ thứ 14. 
 
18. Học thuyết Duy Kinh Thánh sản sinh ra Hoa Quả Xấu, tức là sản sinh ra Chia Rẽ và Bất Hòa. 
 
Nếu học thuyết Duy Kinh Thánh là đúng, thì nó cần phải đòi hỏi tất cả mọi người Tin Lành đồng thuận về mặt từ ngữ, về mặt lời lẽ trong học thuyết, bởi Kinh Thánh không thể giảng dạy đồng thời các niềm tin trái ngược nhau. Còn nữa, thực tế là chính xác có hàng ngàn môn phái và giáo phái Tin Lành, mỗi một giáo phái đều tuyên bố coi Kinh Thánh như là kim chỉ nam duy nhất, mỗi một giáo phái đều tuyên bố là mình đang rao giảng sự thật, ngay cả mỗi một giáo phái đều giảng dạy điều khác biệt với các giáo phái khác. Người Tin Lành tuyên bố rằng họ chỉ khác nhau ở các vấn đề ngoại vi và không thuộc về bản chất, nhưng thật ra là họ không thể đồng thuận ngay cả trong các vấn đề mang tính học thuyết chủ yếu (tín lý) như là Bí Tích Thánh Thể, ơn cứu độ, và sự công chính hóa – đó chỉ mới nêu ra một ít mà thôi. 
 
Ví dụ như : hầu hết các giáo phái Tin Lành giảng dạy rằng Đức Giêsu Kitô chỉ hiện diện có tính biểu tượng trong Bí Tích Thánh Thể, trong khi những giáo phái khác (như các giáo phái Luther và Giám Chế) lại tin rằng Người thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, ít nhất trong phạm vi nào đó. Nhiều giáo phái dạy rằng một khi bạn được “cứu độ” thì sẽ không bao giờ mất đi ơn cứu độ của mình, trong khi những người khác lại tin rằng khả dĩ đối với một người Kitô hữu chân chính khi phạm tội trọng thì sẽ không còn được “cứu”. Và có các giáo phái dạy rằng công chính hóa đòi hỏi bản thân người Kitô hữu đơn thuần biểu thị sự công chính của mình, trong khi những người khác dạy rằng người Kitô hữu cũng phải trưởng thành trong đời sống thánh thiện và thực sự trở nên công chính. 
 
Đức Chúa dứt khoát không bao giờ muốn những kẻ đi theo người phải đi đến tình trạng phân tán, bất hòa và hỗn loạn như lịch sử của đạo Tin Lành đã đi đến ngay từ khởi đầu của đạo giáo này (36). Ngược lại, Người cầu nguyện cho những kẻ đi theo người : “Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.” (Ga 17,21). Còn Thánh Phaolô thì hô hào các Kitô hữu đi đến hiệp nhất trong giáo thuyết bằng các lời : “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí… Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa.” (Ep 4,4-5). Thế thì, làm sao mà hàng ngàn giáo phái và môn phái Tin Lành tất cả lại có thể tuyên bố là “Giáo Hội đích thực” khi ngay trong sự hiện hữu của họ lại bác bỏ lời tuyên bố này ? Làm sao mà tính chất không chính thống và mâu thuẫn trong học thuyết có thể trở nên hiệp nhất được như lời Chúa đã cầu xin ? 
 
Về mặt này, người đọc hãy nên nhớ đến lời của Đức Kitô : “Xem quả thì biết cây.” (Mt 12,33). Theo tiêu chuẩn này, bằng chứng lịch sử đã được đạo Tin Lành đưa ra, chứng minh rằng cây Duy Kinh Thánh đang sản sinh ra trái xấu. 
 
19. Học thuyết Duy Kinh Thánh không ưng thuận một sự giải thích có tính quyết định, tối hậu về bất kỳ một đoạn văn Kinh Thánh nhất định nào. 
 
Như chúng ta đã thấy ở phần trên, học thuyết Duy Kinh Thánh bảo lưu ý kiến cho rằng cá nhân người tín hữu chỉ cần có Kinh Thánh làm quy luật đức tin và người tín hữu có thể có được một giải thích đúng về đoạn văn Kinh Thánh nhất định, đơn giản bằng so sánh đoạn Kinh Thánh ấy với phần còn lại của Kinh Thánh dạy điều gì. Tuy nhiên, trong thực tiễn, cách tiếp cận này tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết các vấn đề, và rốt cuộc, nó lại cản trở người tín hữu biết một cách rõ ràng và với sự chắc chắn bất kỳ một đoạn văn mà Kinh Thánh nhất định nào đó phải được giải thích như thế nào. 
 
Trong thực tế, người Tin Lành giải thích Kinh Thánh từ một quan điểm đánh giá chủ quan hơn là sự thật khách quan. Lấy thí dụ, một người Tin Lành A đang học hỏi một đoạn Kinh Thánh và có kết luận chú giải X. Người Tin Lành B cũng nghiên cứu đoạn văn y hệt và có kết luận chú giải Y. Sau cùng, người Tin Lành C cũng tìm hiểu đoạn văn tương tự đi cùng và có kết luận chú giải Z (37). Các chú giải X, Y và Z đều mâu thuẫn nhau. Còn mỗi một người Tin Lành ấy, theo quan điểm Tin Lành, đều có thể cho rằng chú giải của mình đều “đúng” bởi mỗi người đều đã “so sánh các câu Kinh Thánh này với các câu Kinh Thánh khác.” 
 
Bây giờ chỉ có thể có hai quyết định đối với ba người Tin Lành này : 
 
a/    Mỗi một người trong số họ đều không chính xác trong sự giải thích của mình. 
 
b/   Chỉ có một người trong số họ là đúng – bởi vì cả ba cách giải thích mâu thuẫn nhau không thể cùng lúc là sự thật (38) 
 
Vấn đề ở đây là : nếu không có sự hiện hữu của một thẩm quyền vô ngộ nói cho cả ba người Tin Lành cách giải thích tương ứng nào của họ là đúng (thí dụ như : sự thật khách quan), thì không đời nào mỗi người trong số họ biết chắc chắn và rõ ràng là giải thích cá biệt của mình có phải là giải thích đúng hay không. Rốt cuộc, mỗi một người Tin Lành đều để lại một giải thích cá nhân căn cứ chỉ trên cách đánh giá riêng – trên sự học hỏi và nghiên cứu bất kể vấn đề nào. Mỗi một người Tin Lành như thế đều trở nên cấp thẩm quyền tối hậu cho chính mình – hay nếu muốn, trở nên “Giáo Hoàng” của mình. 
 
Trong thực tiễn, đạo Tin Lành đang minh xác sự việc này. Bởi một mình Kinh Thánh chưa đủ điều kiện làm một quy luật đức tin (nếu đã đủ, thì cả ba người Tin Lành kia sẽ hoàn toàn hòa hợp trong các lời giải thích của họ), mọi tín hữu và mọi giáo phái trong đạo Tin Lành phải nhất thiết đến với cách giải thích Kinh Thánh riêng của từng vị tín hữu nam-nữ ấy và của từng giáo phái ấy. Do đó, một khi các câu Kinh Thánh đều có thể giải thích cách nào cũng được, thì theo định nghĩa, là chẳng có lời giải thích tận cùng nào cả. Và nếu không có lời giải thích tận cùng, thì một cá nhân không thể biết được lời giải thích của mình có là sự thật khách quan hay không. 
 
Một so sánh trọn lành sẽ trở thành luật đạo đức. Nếu mỗi người đều dựa vào đánh giá riêng của mình để định đoạt điều gì đúng hay sai, thì chúng ta sẽ chẳng có gì hơn là thuyết tương đối về đạo đức, và mỗi người đều có thể quả quyết đúng đắn chiều hướng các tiêu chuẩn sống của riêng mình. Tuy nhiên, bởi Thiên Chúa đã phân định rõ ràng các điều xác thực về đạo đức cho chúng ta (thêm vào đó là cho những người mà chúng ta có thể biết được bởi lý lẽ của quy luật tự nhiên – [tức là những người không phải là Công Giáo  nhưng sống đúng với lương tâm – hiểu theo ý của người dịch]), chúng ta có thể đánh giá bất kỳ một hành động đã nhận thấy được và định đoạt hành động ấy tốt hay xấu về mặt đạo đức như thế nào. 
 
Lẽ tất nhiên, bất kỳ một giáo phái nào đó được biết trong đạo Tin Lành có thể sẽ bảo lưu ý kiến về các giải thích đặc biệt của mình đều là giải thích đúng – ít nhất là trong thực tiễn, nếu chưa chính thức. Nếu giáo phái ấy không làm như thế, thì các môn đồ sẽ đổi giáo phái ! Tuy nhiên, một khi có một giáo phái nào đó tuyên bố rằng sự giải thích của mình là đúng hơn các giải thích của những giáo phái khác, có nghĩa là giáo phái ấy thực sự đã tự đặt mình là một cấp thẩm quyền tối hậu. Vấn đề ở đây là một hành động như thế sẽ vi phạm học thuyết Duy Kinh Thánh, là thiết định một quyền bính bên ngoài Kinh Thánh. 
 
Mặt khác, nếu có giáo phái mà người ta đã biết nào đó công nhận rằng các giải thích Kinh Thánh của giáo phái ấy không đúng hơn các giải thích của những giáo phái khác, thì chúng ta phải trở về với tình trạng khó xử của sự việc không bao giờ biết được giải thích nào là đúng, và như thế sẽ không bao giờ có được chân lý cuối cùng. Nhưng Chúa đã phán : “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” (Ga 14,6). Khó khăn ở đây là từng giáo phái và mọi giáo phái trong đạo Tin Lành đều cùng một lời tuyên bố - hoặc là theo hiệu nghiệm hoặc theo hình thức – đều cho rằng các giải thích của mình là “đúng”. Điều mà chúng ta đang được di tặng là hàng ngàn giáo phái khác nhau, mà mỗi một giáo phái lại tuyên bố là mình có một “chân lý” Kinh Thánh, còn ngoài ra không một giáo phái nào có khả năng đưa ra một giải thích khách quan đối với “chân lý” ấy. Kết quả là không thể nào có khả năng đạt được một giải thích tối hậu, có thẩm quyền, có tính quyết định nào đối với bất kỳ đoạn văn Kinh Thánh nhất định nào. Nói cách khác, người Tin Lành không bao giờ có thể nói được rằng “không thể đổ trách nhiệm cho ai được nữa” về bất kỳ lời giải thích nào đã được đưa ra cho bất kỳ một đoạn văn Kinh Thánh nào. 
 
20. Kinh Thánh của người Tin Lành thiếu tất cả 7 Sách 
 
Đầy lòng chán ngán, người Tin Lành thực sự có tội vi phạm đến học thuyết của họ. Học thuyết Duy Kinh Thánh cấm đoán bất cứ người nào thêm vào hay xóa bỏ một điều gì trong Kinh Thánh, nhưng trong thực tế, người Tin Lành đã bỏ đi tất cả 7 quyển trong bộ Cựu Ước, cũng như bỏ đi nhiều phần trong hai quyển khác. Những quyển đang được nói đến là những quyển bị người Tin Lành gọi tên một cách sai lầm là “Aprocrypha” (Ngụy Thư – sách thiếu xác thực), còn người Công Giáo gọi những quyển sách ấy là "deuterocanonical" (Đệ Nhị Lục). Đó là các Sách : Tô-bi-a (Tô-bi), sách Giu-đi-tha, sách Ma-ca-bê quyển 1 và 2, sách Khôn Ngoan, sách Huấn Ca (hay Si-rắc) và sách Ba-rúc. Nhiều phần của Sách Đa-ni-en và Ét-te cũng thiếu trong bộ Kinh Thánh của người Tin Lành. 
 
Để biện hộ cho việc không đầy đủ trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, người Tin Lành lúc nào cũng đưa ra một hay nhiều lý lẽ như sau : 
 
1/   Bộ Kinh Thánh ngắn hơn, là bộ Kinh Thánh Cựu Ước của người Biệt Phái (hay của người Pa-lét-tin) (39) được Chúa Giêsu và các Tông Đồ chấp nhận, bởi các Ngài chưa từng trích dẫn đến các sách trong bộ Đệ Nhị Lục. 
 
2/   Bộ Kinh Thánh Cựu Ước đã khép lại trong thời Chúa Giêsu, và đó là thư bộ Kinh Thánh ngắn hơn. 
 
3/   Chính người Do Thái đã chấp nhận bộ Kinh Thánh ngắn hơn, là bộ Kinh Thánh của người Pha-ri-siêu trong Công Nghị Jamnia (hay Javneh) vào năm 90 sau công nguyên. Và, 
 
4/   Các sách trong Đệ Nhị Lục chứa đựng chất liệu không phù hợp với Kinh Thánh. 
 
Từng lý lẽ như trên đều trọn vẹn bất toàn. 
 
1)   Về lời tuyên bố Đức Kitô và các Tông Đồ của Người đã chấp nhận bộ Kinh Thánh ngắn hơn, bộ Kinh Thánh Biệt Phái, thì một cuộc khảo sát về những điều mà Tân Ước trích dẫn theo Cựu Ước sẽ chứng tỏ tính chất ngụy biện của lời tuyên bố này. Tân Ước đã trích dẫn Cựu Ước khoảng 350 lần, và trong xấp xỉ 300 trường hợp trích dẫn đó (86%), đoạn trích được trích từ Bản Bảy Mươi, là bộ Cựu Ước được dịch từ tiếng Do Thái cổ sang tiếng Hy Lạp đang được dùng rộng rãi trong thời Đức Kitô. Bản Bảy Mươi bao gồm các sách trong Đệ Nhị Lục. Vì thế, thật là vô lý và quá ngạo mạn (quá tự quyền) khi phát biểu rằng Đức Kitô và các Tông Đồ của Người đã chấp nhận thư bộ Kinh Thánh Cựu Ước ngắn hơn này, bởi vì rõ ràng là toàn bộ thời gian chủ yếu Đức Kitô và các Tông Đồ của Người đã dùng một bản Kinh Thánh Cựu Ước có chứa đựng 7 quyển sách đang nói đến. 
 
       Hoặc là, lấy trường hợp Thánh Phaolô, là người có những cuộc hành trình truyền giáo và có những Thư viết gửi đến người Do Thái nói tiếng Hy Lạp sinh sống ở các miền ngoại vi Pa-lét-tin. Lấy thí dụ về điều đã được người ta ghi nhận là bài thuyết giáo của Thánh Phaolô tại An-ti-ô-khi-a ở miền Pi-si-đi-a : “bao hàm một hiểu biết thấu đáo giữa những kẻ đang nghe Ngài (Thánh Phaolô) và Bản Bảy Mươi” và một khi cộng đoàn Kitô hữu đã được thành lập, thì nội dung của các Thư của Thánh Phaolô gửi đến các thành viên trong cộng đoàn “được hít thở Bản Bảy Mươi” (40). Rõ ràng là Thánh Phaolô đang ủng hộ bộ Cựu Ước dài hơn bằng cách gọi tên thường lệ của Bản Bảy Mươi. 
 
       Hơn nữa, thật là sai lầm khi nói rằng Đức Kitô và các Tông Đồ của Người chưa từng trích lời trong bộ Đệ Nhị Lục(41), hay là nói rằng đoạn trích dẫn đó là một điều tiên quyết để cho một quyển sách được gộp vào thư bộ Thánh Kinh. Theo một bản danh sách, bộ Đệ Nhị Lục được trích dẫn hay ám chỉ đến trong Tân Ước không ít hơn 150 lần ! (42). Ngoài ra, có những quyển sách thuộc Cựu Ước như là Sách Giảng Viên, Sách Ét-te và Sách Ngôn Sứ Ô-va-đi-a là những sách mà Đức Kitô và các Tông Đồ không trích dẫn, tuy nhiên lại được gộp vào thư bộ Kinh Thánh Cựu Ước (của cả Công Giáo lẫn Tin Lành). Vậy thì, rõ ràng là việc trích dẫn của Đức Kitô và các Tông Đồ của Người không quyết định quy điển một cách đơn phương. 
 
2)   Về lời tuyên bố Đức Kitô và các Tông Đồ của Người hành động với một bộ Kinh Thánh Cựu Ước đã được khép lại – mà người Tin Lành khăng khăng cho là bộ Kinh Thánh ngắn hơn – thì bằng chứng lịch sử đã làm suy yếu luận điệu này. 
 
Thứ nhất là : không có một thực thể nào được biết đến như là bộ Kinh Thánh duy nhất của người Pa-lét-tin, bởi vì thực tế có 3 bộ Kinh Thánh hiện hành tại Pa-lét-tin trong thời gian đó (43), ngoài Bản Bảy Mươi. 
 
Thứ hai là : chứng cứ lịch sử đã chứng minh rằng : “Do Thái Giáo trong thời gian hai thế kỷ trước công nguyên và thế kỷ thứ nhất sau công nguyên không có một chút đồng dạng nào trong vốn hiểu biết của mình về những quyển trong các ký lục của mình được xem như là Sách Thánh. Có nhiều quan điểm cả bên trong lẫn bên ngoài Do Thái trong thế kỷ thứ nhất trước và sau công nguyên về những bản ký lục được cho là Sách Thánh.” (44) 
 
3)   Dùng Công Nghị Jamnia nhằm hỗ trợ cho bộ Kinh Thánh ngắn hơn rõ ràng là điều mơ hồ, bởi các lý do như dưới đây : 
 
a/-   Các quyết định của một công nghị Do Thái đã được tổ chức hơn 50 năm sau ngày Đức Kitô Phục Sinh không hề buộc cộng đoàn Kitô hữu phải tuân, cũng như các luật lệ nghi lễ của Do Thái Giáo (thí dụ như : cấm không được ăn thịt heo) không ràng buộc người Kitô hữu. 
 
b/-   Sự việc thật đáng ngờ, không biết công nghị có đưa ra các quyết định tối hậu về bộ Kinh Thánh Cựu Ước hay không, bởi vì : “‘hành động ô uế’ theo công nhận trong Bộ Luật Cựu Ước còn tiếp tục biến đổi ngay trong lòng Do Thái Giáo mãi cho đến suốt thế kỷ thứ tư sau công nguyên”(45)
 
c/-  Công nghị, theo một phạm vi nào đó, là một cuộc luận chiến nhằm đặc biệt chống lại “khuynh hướng giáo phái” trong Kitô Giáo, và vì thế, cái tinh thần chung của công nghị vốn đã đối lập với tính chất Kitô Giáo rồi. Đúng là hầu hết những người Do Thái đó đều có thể chấp nhận bộ Kinh Thánh Cựu Ước ngắn hơn của người Biệt Phái, bởi vì các Kitô Hữu tiên khởi đã chấp nhận Bản Bảy Mươi dài hơn. 
 
d/-  Các quyết định của công nghị này là mẫu mực cho sự phán quyết của một nhánh Do Thái Giáo Biệt Phái trong miền Pa-lét-tin chứ không phải là mẫu mực cho toàn thể Do Thái Giáo. 
 
4)   Sau cùng, vì người Tin Lành quả quyết rằng bộ Đệ Nhị Lục chứa đựng những tài liệu phi Kinh Thánh, điều này dứt khoát là một trường hợp về thái độ độc đoán tùy tiện. Đi đến kết luận này thật đơn giản, bởi vì những người được gọi là Cải Cách, là những người đối lập một cách rõ ràng với Giáo Hội Công Giáo, họ đã tiếp cận Kinh Thánh với một ý niệm tiên nghiệm để mà rao giảng học thuyết “Cải Cách” (Tin Lành). Họ thải bỏ Đệ Nhị Lục bởi vì trong nhiều trường hợp mà người ta đã chắc chắn những quyển sách này đều chứa đựng học thuyết Công Giáo không thể cãi lại được, như trong trường hợp Sách Ma-ca-bê, quyển 2, đoạn 12, từ câu 42 đến câu 46, ủng hộ rõ ràng tín điều cầu nguyện cho người đã chết và sau này là tín điều về Luyện Ngục : “Đó là lý do khiến ông xin dâng hy lễ đền tội cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi.” (2 Mcb 12,46). Trong thực tế, Luther cũng còn muốn thải bỏ Sách Khải Huyền và Thư của Thánh Gia-cô-bê ra khỏi bộ Tân Ước, thư mà ông đã gọi là “Thư rơm rác” [có nghĩa là chẳng có giá trị gì sất] và trong bản văn ấy ông đã “không cảm thấy có gì có tính Tin Mừng trong đó – chẳng có gì mà phải nghi ngờ vì bản văn ấy (Thư của Thánh Gia-cô-bê) đã nói rõ là chúng ta được cứu nhờ đức tin và hành động (xem Gc 2,14-16), điều ấy trái nghịch với học thuyết lầm lạc “duy đức tin” của Luther. Cuối cùng các thân hữu của Luther đã thuyết phục ông giữ lại các quyển này. 
 
Thêm vào những điều đã nói ở trên, đó là sự thật của chứng cứ lịch sử và tính liên tục lịch sử đối với thư bộ Kinh Thánh. Trong khi chúng ta đã thấy rằng có những cuộc tranh luận về thư bộ Kinh Thánh, có hai vấn đề cần phải tính đến, dù sao đi nữa đều là sự thật : 
 
1/-  Chắc chắn bộ Đệ Nhị Lục đã được người Kitô hữu sử dụng từ thế kỷ thứ nhất trở đi, khởi sự từ Đức Giêsu các môn đệ của Người. Và, 
 
2/-  Một khi vấn đề về quy điển Kinh Thánh đã được ổn định trong thế kỷ thứ tư, chúng ta không thấy có sự thay đổi nào trong việc thực hành đời sống Kitô hữu có liên quan đến bộ Thánh Kinh từ thời điểm đó về sau. 
 
Trong thực tiễn, chỉ có hai thực tại thách thức và loại bỏ này xảy ra khi có mặt những người được gọi là Cải Cách trong thế kỷ thứ 16 và họ đã quyết định coi như rác rưởi tính chất liên tục qua 11 thế kỷ về sự hiện hữu có tính hình thức của quy điển Kinh Thánh cũng như họ coi như rác rưởi tính chất liên tục qua 15 thế kỷ về sự tồn tại thực tiễn của quy điển Kinh Thánh. 
 
Sự việc bất kỳ một cá nhân nào xúc tiến và đơn thương độc mã thay đổi tính liên tục về một vấn đề hết sức trọng tâm như là những quyển nào bao gồm trong bộ Kinh Thánh, đã làm cho người chân thành đi theo Đức Kitô phải đình trệ việc thực hành đời sống Kitô hữu một cách nghiêm trọng. Quả là người đi theo Đức Kitô buộc lòng phải hỏi : “Bằng thẩm quyền của ai mà cá nhân này tạo ra một sự thay đổi chủ yếu như thế ?” Cả lịch sử lẫn các tác phẩm của Luther đều cho thấy rằng các hành động của Luther chẳng căn cứ vào một điều nào cả mà chỉ có cá nhân ông mới nói như thế. Chắc chắn là một “thẩm quyền” như thế thất bại một cách thô thiển trong việc phải cần đến sự thay đổi quy điển Kinh Thánh mà người ấy đang tán thành, nhất là việc cho rằng người ấy đang xúc tiến việc xác định bộ Kinh Thánh được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, phải mất nhiều thế kỷ, và lôi kéo theo nhiều trí tuệ vĩ đại nhất trong Kitô Giáo cũng như một số các Công Đồng Thánh của Giáo Hội. Sự kiện còn có nhiều phiền phức hơn nữa là có những người khác được gọi là Cải Cách – và từ đó là những người Tin Lành – đã hành động theo cách mà Luther đã làm là chấp nhận thay đổi quy điển Kinh Thánh, thế mà trong mọi lúc, họ lại đòi hỏi phải tôn kính Kinh Thánh và cứ khăng khăng là không điều gì có thể được thêm vào hoặc xóa bỏ khỏi Kinh Thánh. 
 
21. Học thuyết Duy Kinh Thánh bắt nguồn từ các Vấn Đề thuộc về Cảm Xúc riêng tư của Luther 
 
Nếu có điều gì mà người ta có thể nói đến một cách chắc chắn về Martin Luther, đó chính là ông ấy băn khoăn sâu sắc và thâm căn cố đế trong việc phối hợp các mối nghi ngờ và tuyệt vọng về ơn cứu độ của mình và cảm giác về sự hoàn toàn bất lực của mình khi đối diện với sự cám dỗ và tội lỗi. Chính Luther đã ghi lại rằng : “Tinh thần tôi hoàn toàn tan vỡ và tôi luôn trong tình trạng u sầu; bởi vì, khi tôi làm việc gì, thì ‘sự công chính’ và ‘việc lành’ của tôi chẳng đem lại sự giúp đỡ và an ủi nào cả.” (47)
 
Trong ánh sáng của thực tại này, người ta phải đánh giá cái tâm trạng cảm xúc và tâm lý của Luther về mặt tác động của chúng nơi các nguồn gốc trong học thuyết Duy Kinh Thánh của ông. Ngay cả một cuộc khảo sát đại khái qua loa cũng sẽ chứng tỏ rằng cái học thuyết này được sinh ra vì nhu cầu cần được giải thoát khỏi các ý nghĩ tội lỗi, tuyệt vọng và bị cám dỗ đã “hành hạ, tra tấn” ông. 
 
Khi cho rằng chính bản thân Luther thú nhận một nỗi ám ảnh có liên quan với tội lỗi của mình, cũng như không có khả năng chống lại chước cám dỗ, có vẻ hợp lý khi kết luận rằng ông ấy đã đau khổ vì quá đắn đo, ngay cả những người nghiên cứu về Luther cũng thừa nhận điều này (48). Quá đắn đo có nghĩa là một cá nhân băn khoăn quá mức về việc mình đã phạm tội khi không có cơ sở thực sự nào đối với mối băn khoăn ấy, và một con người băn khoăn thái quá là một người thường xuyên cường điệu hóa sự ngặt nghèo khi nhận thức được tội lỗi, tương ứng với một sự thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa. Cũng thật thích đáng để chú thích thêm rằng người đắn đo thái quá “có vẻ thường dựa vào hành động bất thường về mặt tâm lý trong con người mình.” (49). 
 
Nói cách khác, có lẽ Luther chưa bao giờ có được một lúc nào đó được bình an trong cảm xúc hay bình an trong tâm lý, vì tiếng nói của “lương tâm” luôn luôn cắn rứt ông ấy về một số vấn đề nào đấy, thực sự có hay do tưởng tượng mà có. Đối với nhiều người bị mắc bệnh ấy, điều hết sức tự nhiên là tìm cách trốn lánh tiếng nói này, và đối với Luther nơi trú ẩn tìm được là ở trong học thuyết Sola Fide (Duy Đức Tin), hay là ơn cứu độ “chỉ bởi đức tin” mà thôi. 
 
Nhưng vì việc tránh xa tội lỗi cũng như thực hiện các công việc thiện đều là các việc làm cần thiết cho ơn cứu độ chúng ta, và vì các điều này đã được Giáo Hội Công Giáo gìn giữ và bền bỉ giáo huấn, nên Luther mới thấy mình hoàn toàn chống đối lại huấn quyền của Giáo Hội. Bởi Giáo Hội nhất thiết khẳng định một cách chính xác về việc làm mà ông ấy cảm thấy mình không có khả năng làm được, nên Luther đã đi đến một quyết định quyết liệt – một quyết định “giải quyết được” vấn đề đắn đo thái quá của ông : ông đã chối bỏ huấn quyền của Giáo Hội, được thể hiện trong Tông Huấn Magisterium với Đức Giáo Hoàng là đầu của Giáo Hội, và ông tuyên bố rằng những điều như vậy đều ngược lại với Thánh Kinh. Nói cách khác, bằng việc tuyên bố học thuyết Duy Kinh Thánh là học thuyết đích thực của người Kitô hữu, Luther gạt bỏ thẩm quyền đã buộc ông phải thừa nhận rằng trạng thái tinh thần của mình là bất thường. 
 
Tóm lại 
 
Do đó, vì tất cả các lý do nêu trên, điều thật hiển nhiên là học thuyết (tín lý) Duy Kinh Thánh của người Tin Lành hoàn toàn là một học thuyết (tín lý) phi Kinh Thánh, do con người tạo ra, đức tin lầm lạc nên phải phủ nhận hoàn toàn. Những người là tín hữu Công Giáo đích thực và người nào có lòng phó thác cho các chân lý mà Chúa Giêsu Kitô đã dạy – cho dù những người này mâu thuẫn với hệ thống tôn giáo hiện hành của ai đó – phải được ràng buộc bằng chứng cứ hầu nhìn ra được các điều thiếu sót cố hữu trong học thuyết này, các điều thiếu sót hết sức hiển nhiên khi nhìn từ Kinh Thánh, lý luận và lịch sử. 
 
Sự toàn vẹn của chân lý tôn giáo, không lẫn với sai lầm, chỉ được nhận ra nơi Giáo Hội Công Giáo, chính là Giáo Hội mà Chúa Giêsu Kitô chính Người đã thiết lập. Theo giáo huấn của Giáo Hội này, là Giáo Hội được Đức Kitô sáng lập, thì học thuyết Duy Kinh Thánh là một quan điểm Công Giáo bị cắt xén, méo mó về quyền bính Công Giáo. Đúng ra, chân lý quy luật đức tin đối với người Kitô hữu là : 
 
Quy luật đức tin trước mắt và trực tiếp là huấn quyền của Giáo Hội; Giáo Hội lần lượt nhận lấy huấn quyền của mình từ Mạc Khải của Thiên Chúa – trong cả hai phương diện Lời Chúa được ghi chép lại, gọi là Thánh Kinh, và Lời Chúa qua truyền khẩu chưa được ghi chép lại, được biết đến như là “Thánh Truyền” – đã cùng nhau hình thành nên quy luật đức tin từ xa và gián tiếp. 
 
Kinh Thánh và Thánh Truyền đều là các nguồn gốc của học thuyết Công Giáo được Thiên Chúa linh hứng, trong khi Giáo Hội – một thực thể hữu hình và có tính lịch sử tồn tại liên tục không đứt quãng từ thời Thánh Phêrô và các Thánh Tông Đồ – là vị tôn sư không thể sai lầm và là nhà chú giải học thuyết Công Giáo. Chỉ bằng việc chấp nhận quy luật đức tin Công Giáo toàn diện này thì những người đi theo Đức Kitô mới biết mình đang bám chặt với tất cả những điều mà Người truyền cho các Tông Đồ của Người đi giảng dạy cho mọi người. (x. Mt 28,20). Chỉ bằng việc chấp nhận quy luật đức tin Công Giáo toàn diện này thì các người đi theo Đức Kitô mới được bảo đảm sở hữu toàn bộ chân lý mà Đức Kitô đã giảng dạy, và không có điều gì khác ngoài chân lý đó. 
 
=============================== 
 
34.  Cần phải ghi nhận rằng nhà phát minh ra máy in – Johannes Gutenberg – là một người Công Giáo, và quyển sách đầu tiên ông đã in ra là quyển Kinh Thánh (vào khoảng 1455). Cũng còn phải ghi nhận là bộ Kinh Thánh đầu tiên được in chứa đựng 73 quyển, chính xác cùng với một con số các sách trong Kinh Thánh Công Giáo hiện nay. Người Tin Lành đã bỏ 7 quyển ra khỏi Cựu Ước sau khi bộ Kinh Thánh đã bắt đầu được in ra. 
 
35. Theo một số đánh giá, có xấp xỉ 25.000 danh xưng và giáo phái Tin Lành khác nhau. Trong khoảng gần 500 năm kể từ khi Martin Luther thành lập đạo Tin Lành (thường xác định ngày tháng vào năm 1517), con số này biến thành một con số trung bình của một tân danh xưng hay giáo phái Tin Lành vào mỗi tuần lễ ! Cho dù Quý Vị có đánh giá một cách dè dặt về 10.000 danh xưng và giáo phái, Quý Vị vẫn có một danh xưng hoặc giáo phái mới trong 2 tuần rưỡi. 
 
36.  Ngay cả những nhà “Cải Cách” nguyên thủy – Martin Luther, John Calvin và Ulrich Zwingli – đã không đồng thuận các vấn đề về học thuyết và đã liệt các giáo thuyết của người khác vào tà thuyết. 
 
37.  Con số 3 người được dùng ở đây cho mục đích minh họa mà thôi. Con số người như nói trên thực tế có trong lịch sử (thí dụ như con số cách chú giải khác biệt nhau đối với những câu Kinh Thánh khác nhau) còn lớn hơn nhiều. 
 
38.  Không thể phủ nhận rằng một đoạn Kinh Thánh nhất định có thể có các mức độ giải thích khác nhau, hay có thể có các mức độ khác nhau về ý nghĩa dưới hình thức ứng dụng trong đời sống của người tín hữu. Tuy nhiên, điều bị phủ nhận ở đây là một đoạn Kinh Thánh nhất định có thể có hơn một ý nghĩa thần học hay ý nghĩa về mặt tín điều khi đối mặt với các lối giải thích chống đối. Lấy thí dụ : giả như có hai người lần lượt quả quyết “X” và “không X” cho một giải thích đã được nêu ra, thì cả hai quyết đoán này đều không đúng. Chẳng hạn như lấy tín điều về Bí Tích Thánh Thể làm thí dụ - một khi người thứ nhất cho rằng Bánh và Rượu trong Thánh Lễ thực sự trở nên Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, còn người thứ hai thì nói rằng cả hai đều không, thì cả hai quan điểm này không thể trở thành sự thật khách quan. 
 
39. Bộ Kinh Thánh Biệt Phái mà người Do Thái sống ở miền Pa-lét-tin xử dụng không có bộ sách Đệ Nhị Lục. Bộ Kinh Thánh Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp hay bộ Kinh Thánh A-lếc-xăng-đri, được kiều dân Do Thái sống tản mác giữa dân ngoại từ thời kỳ lưu đày (thí dụ như sống trong các miền nói tiếng Hy Lạp cổ đại ở ngoại vi Pa-lét-tin) thì lại có bộ Đệ Nhị Lục. 
 
40.  W.H.C. Frend (là một tác giả Tin Lành) - The Rise of Christianity (Philadelphia, PA: Fortress Press, 1984), trang 99-100. 
 
41.  Lấy thí dụ, so sánh các đoạn văn Kinh Thánh sau đây : Mt 6,14-15 với Hc 28,2 – Mt 6,7 với Hc 7,15(14) – Mt 7,12 với Tb 4,16(15) – Lc 12,18-20 với Hc 11,19 (Sirach 11,19-20) – Cv 10,34 với Hc 35,15 (Sirach 35,12) – Cv 10,26 với Kn 7,1 – và Mt 8,11 với Br 4, 37. 
 
42.  Lee Martin McDonald (tác giả Tin Lành), The Formation of the Christian Biblical Canon, phụ lục A (Nashville, TN : The Parthenon Press, 1988). (Đề mục "New Testament Citations and Allusions to Apocryphal and Pseudepigraphal Writings," phỏng theo sách The Text of the New Testament, do Kurt Aland and Barbara Aland, là hai nhà nghiên cứu Kinh Thánh nổi tiếng thực hiện)  
 
43.  Ba bộ Kinh Thánh hiện hành tại Pa-lét-tin trong thời gian đó gồm có : 
 
a/   Bộ Kinh Thánh Qumran, mà chúng ta được biết từ những Cuộn Giấy Kinh Thánh tìm được ở Biển Chết. 
 
b/    Bộ Kinh Thánh Biệt Phái. Và, 
 
c/   Bộ Kinh Thánh Sa-đốc/ Sa-ma-ri chỉ bao gồm Ngũ Thư (các sách đầu tiên của Cựu Ước). 
 
44.  Trích McDonald, trang 53. 
 
45.  Sách đã dẫn, trang 60. 
 
46. Hartmann Grisar, S.J., Martin Luther: His Life and Work (B. Herder, 1930; Westminster, MD: The Newman Press, 1961), trang 426. 
 
47.  Jansen, Vol. III, trang 84, trích trong tác phẩm của O’Hare, op. cit., trang 51. 
 
48.  Tham khảo Fr. William Most, "Are We Saved by Faith Alone?", băng từ (cát-sét) của Catholic Answers, P.O. Box 17490, San Diego, CA 92177.
 
49.  Linh Mục Peter Stravinskas, biên tập trong Catholic Encyclopedia (Huntington, Indiana : Our Sunday Visitor, Inc., 1991), trang 873.